- ............~♥:
- Chương 7 (E)NGÀY 37, 38, 39, 40
NGÀY THỨ BA MƯƠI BẢY.
Chàng Culup sau khinghe nói vậy không còn chút nghi ngờ mình đang sống với tiểu thư con gái của ngài Boyruc. Chàng thốt lên lòng tràn ngập mừng vui và yêu dấu:
- Hỡi nàng Đilara kiều diễm, sự ngẫu nhiên này may mắn làm sao! Thật là chuyện thần kỳ, trời giúp cho tôi đạt đến ước vọng bao lâu của mình. Sao? Người ta bảo tôi phải làm hula cưới chính nàng đó ư? Nàng, con người mà bình ảnh xinh tươi luôn khắc sâu trong trái tim tôi! Mà tôi những ngỡ không bao giờ còn được nhìn thấy lại! Ôi, nếu nàng đã từng phàn nàn cho thân phận người con trai của cụ Abđala, nếu sự thất sủng của tôi từng làm nàng rơi bao nước mắt thì giờ đây xin hãy chia sẻ với tôi hạnh phúc tuyệt vời. Ai dám nghĩ rằng khi quốc vương Kêrait đuổi tôi ra khỏi triều đình, là trời muốn bắt tôi trải qua cơn bất hạnh để đến lúc này cho tôi trở thành con người hạnh phúc nhất thế gian?
Nàng Đilara cũng như chàng Culup không thể nào nén nổi tình cảm của mình, họ sống trông hạnh phúc đêm hôm ấy cạnh nhau. Tưởng vừa sống cùng nhau trong chốc lát, bỗng nghe có tiếng đập cửa ầm ầm. Một tên nô lệ của thương gia Muzaphe đến đập cửa phòng gọi to:
- Nào, hỡi ngài hula kia, xin ngài hãy thức dậy đi thôi, trời sắp sáng rồi.
Chàng Culup chẳng buồn đáp lại tiếng đập cửa, cứ tiếp tục chuyện trò với nàng con gái thượng thư Boyruc. Dù sao niềm vui của chàng cũng tiêu tan trước tiếng đập cửa. Hết sức buồn rầu, chàng nói:
- Tôi nghe tiếng ai gọi vậy, hỡi bà hoàng của tôi. Người ta muốn chia rẽ chúng ta rồi đấy. Ngài Muzaphe sốt ruột muốn được có nàng trở lại gia đình ông. Còn cậu con trai chắc đang ghen tị hạnh phúc đôi ta, cậu không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Và cả ánh sáng ban ngày nữa, hẳn cũng về hùa với các đối thủ của chúng ta, cho nên thôi thúc chúng ta chia tay nhau nhanh nhẩu vậy. Hỡi ôi, tôi vừa được gặp lại nàng, thì tôi lại phải mất nàng cho dù chúng ta yêu thương nhau đến bao nhiêu, bởi tôi đã trót thề đuổi nàng đi ngay sáng nay.
Nàng Đilara ngắt lời:
- Vậy là chàng nghĩ có thể giữ vẹn lời thề khủng khiếp ấy hay sao? Trước đây, khi thốt lời thề ấy, chàng đâu có biết chàng sẽ đuổi chính em đây? Vì vậy, chàng chẳng bị ràng buộc phải giữ một lời thề như vậy, và Đilara này chẳng đáng để chàng chối bỏ một lời thề sao? Ôi, hỡi chàng Culup- nàng vừa nói vừa khóc- hoá ra chàng chẳng yêu em, bởi chàng còn cân nhắc giữa tình yêu và lý trí.
- Nhưng thưa bà, - chàng nói- điều ấy đâu có tuỳ thuộc ở tôi hay ở bà? Cho dù tôi có vi phạm lời thề, bà có nghĩ tôi, một người nước ngoài không nơi nương tựa, không có chút của cải trong tay, có thể đương đầu nổi ngài Muzaphe danh tiếng ấy sao?
- Được chứ,- con gái thượng thư Boyruc đáp. – Có thể lắm chứ. Chàng hãy coi thường những lời doạ nạt của lão ta. Chàng hãy khước từ những gì lão ta đưa tặng. Luật pháp đứng về phía chàng. Nếu chàng đủ nghị lực, chàng có thể phá tan mọi mưu đồ và nỗ lực của họ muốn chia lìa chúng ta.
- Nếu vậy thì, thưa bà hoàng của tôi, bà sẽ được hài lòng- chàng trai cũng bốc lên mà nói.- Lời thề của tôi quả là quá nặng nề, tôi biết rồi suốt cuộc đời sẽ chẳng lúc nào thanh thản nếu tôi giữ vẹn lời thề ấy. Nhất quyết rồi, tôi sẽ không đuổi nàng đi, bởi vì tôi đủ sức tự bảo vệ. Đấy là quyết định của tôi. Giờ thì tôi thách thức ngài Muzaphe cũng như toàn thể trái đất này ai có thể làm tôi thay đổi ý định.
Trong khi chàng trai trấn an bà vợ như vậy thì cậu Tahe, mà đêm qua là một đêm dài dằng dặc, đích thân đến đập cửa phòng và hét:
- Này, anh hula kia, trời sắp sáng rồi đấy. Người ta đã gọi anh dậy đến mấy lần rồi, hãy khẩn trương lên chứ. Gia đình người ta chờ anh lâu lắm rồi, để còn cảm ơn anh và trả đủ cho anh số tiền như đã hứa. Hãy nhanh lên, mặc áo quần vào, chúng ta phải nhanh chóng kết thúc vụ đổi chác này; ngài phó chánh án sẽ có mặt đây ngay trong chốc lát.
Chàng Culup dậy ăn mặc tử tế và ra mở cửa phòng. Cậu Tahe sai một tên nô lệ đưa chàng đến nhà tắm. Khi chàng tắm rửa xong, tên nô lệ ấy trao cho chàng áo quần mới và một chiếc áo dài sạch sẽ, rồi dẫn chàng đến một căn phòng ở đấy đã có mặt thương gia Muzaphe cùng cậu con trai và phó chánh án Đalitmen. Mọi người đứng dậy chào ông hula, chàng đáp lễ. Tiếp đó mọi người cùng ngồi vào bàn dùng điểm tâm. Trong số các thức ăn, không thể thiếu món cháo nấu với nước ép thịt cừu.
Sau bữa ăn lót dạ, viên phó chánh án mời Culup ra riêng một nơi, trao cho chàng năm mươi đồng xơcanh vàng cùng một chiếc khăn đội đầu rất đẹp để trong một cái gói và nói với chàng:
- Chàng trai trẻ ơi, hãy cầm lấy những thứ này. Đó là quà ngài Muzaphe tặng anh. Ngài cảm ơn anh đã giúp ngài một việc. Ngài mong anh chớ nên chần chừ lâu hơn nữa ở kinh đô Samacan này. Vậy anh hãy lên tiếng chính thức đuổi vợ anh đi, rồi rời ngay khỏi thành phố này. Nếu có người nào đó hỏi anh: cậu có nhìn thấy con lạc đà không, thì hãy đáp là không. (Câu phương ngôn người phương Đông dùng khi cần dặn nhau giữ bí mật một điều gì đó).
NGÀY THỨ BA MƯƠI TÁM.
Viên phó chánh án cứ nghĩ là tay hula này, được thương gia Muzaphe trả công hậu hĩnh cho như vậy, sẽ vội vàng tuôn ra những lời cảm tạ. Y hết sức ngạc nhiên khi nghe chàng Culup trả lời như sau:
- Quái lạ! Tôi cứ tưởng ở kinh đô Samacan này,- chàng vừa nói vừa ném túi đựng quà và tiền xơcanh ra xa- là nơi công lý, đạo đức và tôn giáo hằng ngự trị, nhất là từ ngày Hãn Uzbec vĩ đại của chúng ta lên ngôi trị vì nước Tartari. Nhưng tôi vừa nhận ra tôi bị lừa, hay đúng ra người ta đang lừa đức vua. Hoàng thượng chẳng hay biết, ngay ở kinh đô nơi đóng triều đình của ngài, mà người ta vẫn ngang nhiên làm tội làm tình những người từ nước khác tới. Thế này là thế nào nhỉ? Tôi đến thành phố Samacan, một thương gia tới ngỏ lời với tôi, mời tôi về nhà cùng ông dùng bữa tối; ông ta khích lệ vỗ về tôi rồi bảo tôi cưới một người phụ nữ làm vợ phù hợp với luật lệ ở đây. Tôi làm những việc đó với tất cả niềm tin của một tín đồ Hồi giáo; thế mà sau khi mọi việc tiến hành xong xuôi đâu vào đấy, người ta bảo tôi phải đuổi ngay bà vợ của tôi đi! Thưa ngài phó chánh án, xin ngài hãy chớ nói nhiều hơn nữa, xin ngài đừng khuyên tôi có một hành động chẳng xứng đáng chút nào với một con người trung hậu. Nếu không, tôi sẽ đội túi đất bẩn lên đầu (theo phong tục cũ, khi người dân có việc cần kêu oan với vua), tôi sẽ vào tận triều đình phủ phục dưới chân đức Hãn Uzbec tâu xin người phán xét cho. Rồi lúc ấy chúng ta sẽ cùng được nghe đức vua phán bảo việc này ra sao.
Nghe chàng trai nói vậy, viên phó chánh án gọi riêng thương gia Muzaphe ra một nơi và bảo ông:
- Ngài chọn anh chàng ngoại quốc này giúp ngài làm hula, ngài đã xét người quá nhầm lẫn rồi đấy. Giờ đây anh ta khước từ không chịu tuyên bố đuổi vợ đi. Tôi nghĩ đây là một anh chàng láu cá, y chừng nó muốn ép ngài cho nó một khoản nữa đáng giá hơn.
Muzaphe nói:
- Tưởng gì, nếu chỉ có thế thôi, thì hắn ta sẽ được vừa lòng. Ông hãy cho hắn ta một trăm đồng xơcanh vàng, và bảo hắn ngay tức khắc ra khỏi thành phố này thật nhanh chóng và giữ thật kín mồm kín miệng cho tôi.
Chàng Culup thoáng nghe thương gia nói vậy, vội chen vào:
- Không, không phải vậy đâu, thưa ngài Muzaphe. Ngài có tăng gấp đôi gấp ba số tiền thì cũng vô ích thôi. Cho dù ngài trao cho tôi cả một vạn đồng xơcanh, cùng với tất cả vải vóc quý trong cửa hàng của ngài, tôi vẫn chẳng chối bỏ một sự cam kết thiêng liêng khi làm lễ thành hôn với vợ tôi.
Viên phó chánh án Đalitmen thấy sự tình đến thế, liền nhẹ nhàng khuyên bảo:
- Này anh chàng trẻ tuổi ơi, trong vụ làm ăn này, anh đỏi hỏi có hơi quá đáng rồi đấy. Ta thành thực khuyên anh nên nhận một trăm đồng xơcanh vàng ngay đi, rồi nhanh chống ngỏ lời đuổi vợ anh đi. Nếu anh cố tình làm cho vụ này ồn ào lên, rồi đến phải đưa nhau đến cửa công, thì anh sẽ phải hối hận. Ta nói trước cho anh biết.
- Tôi chẳng có gì phải sợ hãi những lời hăm hoạ của ngài,- chàng trai con nhà thương gia Abđala cứng cỏi.-Ngài không được phép buộc tôi huỷ bỏ một cuộc hôn nhân đã được pháp luật bảo hộ.
Cậu Tahe nóng tính, nãy giờ cố nén giận lắng nghe, đến lúc này không chịu nổi nữa. Cậu quát:
- Thế là quá quắt. Chúng ta hãy dẫn tên khốn nạn này lên toà trình với quan chánh án, quan sẽ cho trị nó thật đúng tội. Rồi chúng ta sẽ cùng xem, quan đâu chịu để cho nó lật lọng, lừa dối những người tử tế, sau khi nó đã hứa hẹn với người ta đủ điều.
Đalitmen và Muzaphe vẫn kiên trì thuyết phục chàng hula hãy vui lòng chấp nhận các điều kiện họ đề nghị, chàng trai vẫn một mực không nghe. Thế là mọi người đành cùng nhau kéo lên dinh quan chánh án. Sau khi nghe thương gia và viên phó chánh án trình bày, quan chánh án tin họ đã trình hẳn đúng sự thật, liền nhìn thẳng vào chàng Culup và nghiêm nghị phán:
- Chàng trai trẻ người ngoại quốc kia, người mà cả thành phố này chẳng một ai quen biết, người từng sống bằng của bố thí như một kẻ ăn xin trong thánh đường, anh mất trí rồi hay sao mà đi tưởng tượng có thể bình chân như vại thụ hưởng một bà từng là phu nhân của cậu cả Tahe đây? Lẽ nào anh tin, câu con trai cả của vị đại thương gia giàu có nhất kinh đô Samacan này khoanh tay đứng nhìn một anh chàng chẳng ai biết nguồn gốc đâu ra ôm ấp bà vợ mà cậu hết lòng thương quý, mà cậu nôn nóng muốn được đón trở lại nhà? Hãy bình tâm lại, chàng trẻ tuổi kia, anh hãy suy nghĩ kỹ và tỏ ra biết điều hơn một chút. Địa vị xã hội của anh làm sao sánh được bà vợ anh. Nói giả dụ, cho dù địa vị của anh còn sang hơn địa vị cậu Tahe đi nữa, riêng mỗi một việc anh không có đủ tài sản cai quản cơ ngơi một gia đình giàu sang như vậy, chừng ấy thôi đủ cho ta quyết định không cho phép anh được chung sống với vợ. Vậy thì, anh hãy bỏ đi ngay cái hy vọng hão huyền, vì nó mà anh vi phạm lời thề. Anh hãy nhận món quà của ngài Muzaphe, hãy tuyên bố đuổi người vợ của anh đi, rồi tìm đường trở về ngay xứ sở của mình. Nhược bằng anh cứ cứng đầu cứng cổ không chịu nghe lời ta truyền, thì hãy chờ đấy, ngay tức khắc ta cho đánh anh đúng một trăm roi.
Lời quan chánh án thốt ra, cho dù với giọng chắc nịch của một vị quan toà, vẫn không đủ sức lay chuyển chàng trai. Anh lạnh lùng chịu trận đòn đúng một trăm roi. Chờ thi hành xong cuộc xử phạt, quan chánh án truyền:
- Hôm nay thế là đủ. Ngài mai ta sẽ tăng gấp đôi liều lượng. Nếu đến vậy rồi mà vẫn chưa chữa được cái bệnh cứng đầu cứng cổ của nó, thì ta sẽ có nhiều phương sách cứng rắn hơn. Hôm nay, tạm cho nó ngủ thêm một đêm nữa với vợ. Ta hy vọng sáng mai, cậu chàng sẽ tỏ ra biết điều hơn.
Cậu Tahe muốn ngay trong ngày hôm nay, quan cho đánh đòn chàng hula chí tử hơn nữa, chứ đừng để đến hôm sau. Nhưng quan toà không chấp nhận. Thành thử vị thương gia Muzaphe và cậu cả Tahe đành phải lủi thủi về nhà, dắt theo cả ngài hula cứng đầu cứng cổ. Chàng trai này, cho dù toàn thân đang ê ẩm bởi trận đòn đau, vẫn cắn răng chịu đựng, coi việc người ta cho mình được tự do gặp lại nàng Đilara yêu quý đủ là một liều thuốc giảm đau rất thần hiệu.
NGÀY THỨ BA MƯƠI CHÍN.
Vị thương gia Muzaphe khôn ngoan thấy đối xử với chàng trai cứng không được thì quay sang mềm vậy. Ông ta hứa hẹn với chàng đủ thứ. Ông bảo nếu ngay lúc này chàng chịu tuyên bố đuổi cô gái con quan thượng thư Boyruc đi, thì ông ta xin biếu luôn ba trăm đồng xơcanh vàng. Trong khi người cha đang cố gắng thuyết phục chàng hula, thì cậu Tahe lén xộc vào phòng riêng bà vợ cũ.
Lúc này lòng dạ nàng đang như có lửa đốt. Nàng nôn nóng muốn biết sự tình diễn ra thế nào ở toà án. Nàng băn khoăn lo lắng chờ chàng Culup quay trở lại. Mặc dù tin chắc ở tình yêu sắt đá của chàng, nàng không thể không lo âu, e chàng không đủ nghị lực chịu đựng. Vừa trông thấy người chồng cũ, nàng đã tin sự thể đã diễn ra đúng như mình nghĩ rồi. Chàng Culup hẳn không chịu nổi cực hình đã đành chấp nhận thua cuộc. Nàng rùng mình, cứ tưởng ông chồng cũ đến báo cho biết tin khủng khiếp ấy. Thế là mặt nàng tái nhợt như người chết đuối, và thiếu tí nữa thì ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự. Nhìn thấy cảnh ấy, cậu cả Tahe ta càng hiểu lầm. Cậu nghĩ chắc có ai đó đã nói cho nàng rõ, anh chàng hula kia không chịu làm cái việc tuyên bố đuổi nàng đi, và nàng đang hết sức xốn xang bực bội chính vì chuyện ấy. Cậu nói:
- Nàng ơi, xin nàng chớ quá phiền muộn làm chi. Chưa đến nỗi phải thất vọng. Đúng là tên khốn nạn ta đã chọn nhầm làm hula ấy không muốn trả nàng cho ta, nhưng nàng chớ nên vì vậy mà buồn. Hôm nay, anh chàng đã chịu trận đòn đúng một trăm roi, ngày mai trận đòn còn gấp đôi thế, nếu nó cứ khăng khăng không chịu làm như nó từng thoả thuận với quan phó chánh án. Ngay ngài chánh án cũng đã doạ sẽ cho nó nếm những cực hình ghê gớm nhất. Vậy nàng hãy tạm khuây nguôi đi, bà hoàng của ta ạ. Hãy cố gắng chịu đựng thêm một đêm nay nữa thôi với anh chàng hula ấy, sáng mai chúng ta sẽ trở lại thành vợ thành chồng. Tôi đến đây khẳng định với nàng điều ấy. Nàng hãy kiên nhẫn. Tôi chắc nàng chẳng mấy quan tâm nếu anh chàng khốn nạn ấy bị đòn đau hơn nữa.
- Thưa ngài, - nàng Đilara ngắt lời- Đúng vậy, thái độ của anh hula chính là nguyên nhân làm tôi lo âu. Đời tôi từ nay có được thanh thản hay không, tuỳ thuộc vào câu chuyện ấy. Hỡi ôi! Tôi e vụ này rồi sẽ kết thúc không được như mình mong muốn.
Cậu Tahe vội đáp:
- Xin nàng thứ lỗi cho tôi. Và đừng lo âu nữa. Tôi rất cảm kích trước tấm lòng của nàng. Nàng có thể tin chắc, nội trong sáng mai cuộc hôn nhân của chúng ta sẽ tái lập.
Nói xong, cậu bước ra khỏi phòng người vợ cũ. Lát sau, chàng Culup bước vào.
Vừa nhác thấy chàng trai con của thương gia Abđala, nàng Đilara đang âu sầu bỗng chuyển sang mừng rỡ. Nàng dang rộng đôi tay đón người yêu vào lòng:
- Ôi, người chồng yêu quý của em! Hãy để cho em trả ơn về sự kiên định của chàng. Có đúng là chàng thà chịu đựng cực hình bất công hơn là tuyên bố khước từ Đilara này? Đích thân Tahe vừa cho em biết những gì diễn ra tại toà án. Em vô cùng xúc động trước thái độ kiên quyết của chàng. Bản thân em cũng đau đớn như đang chịu đòn cùng chàng. Thậm chí em không thể nghĩ đến mà không kinh hoàng những cực hình mai đây chàng còn phải chịu.
- Nàng ơi, -chàng Culup đáp- cho dù họ hành hạ tôi đau đớn bao nhiêu, lòng tôi vẫn không bao giờ lay chuyển. Mọi cực hình, cũng như mọi lời hứa hẹn của lão Muzaphe tặng cho nhiều tiền bạc, chẳng mảy may tác động đến tôi, chẳng làm tôi lo sợ. Chưa biết tới đây trời sẽ định đoạt thế nào số phận chúng ta. Chưa biết trời muốn bắt tôi phải chết hay trời cho tôi được sống cùng nàng. Ít ra thì trời chẳng nỡ bắt tôi từ bỏ người vợ yêu quý của mình.
Nàng Đilara nói:
- Chẳng lẽ trời vừa cho chúng ta tái ngộ một cách diệu kỳ như vậy, để bây giờ buộc chúng ta phải chia lìa sao. Em không nghĩ trời bắt chàng phải chết. Bởi trời xui em nghĩ ra một cách đánh lừa kẻ thù chung của chúng ta. Chàng đã nói để quan chánh án rõ chưa, chàng từng là sủng thần của quốc vương Kêrait?
- Chưa. Bởi vì quan đã bịt miệng tôi lại ngay từ đầu. Ông nói trước, cho dù tôi xuất thân là người thế nào đi nữa mà hiện nay trong tay không có chút tài sản nào, thì cho dù xuất thân là ai vẫn không được phép giữ nàng làm vợ.
- Đã vậy thì- nàng Đilara tiếp,- chàng hãy làm đúng theo lời em đây. Sáng sớm mai, khi người ta dẫn chàng ra trước toà, chàng chớ ngần ngại xưng ngay mình là con trai của thương gia Maxaut. Ông ta là một đại phú thương giàu có bậc nhất của thành phố Côgien, của cải không để vào đâu cho hết. Chàng cứ nói ông ta là thân sinh mình. Chàng cứ bạo dạn quả quyết, chẳng bao lâu nữa mọi người sẽ biết điều chàng nói hoàn toàn đúng sự thật.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI.
Culup hứa sẽ làm theo lời nàng Đilara. May ra như vậy sẽ tránh được trận đòn mới. Lòng chàng lại loé lên hy vọng, biết đâu những lời nói ấy khiến quan chánh án và những người kia để cho hai người được chung sống với nhau. Hai người tạm quên đi chuyện trước mắt; lúc này chỉ còn nghĩ chuyện yêu đương cho thoả thích. Suốt phần ngày còn lại và cả đêm hôm ấy, hai người sống bên nhau như một đôi vợ chồng hạnh phúc. Nhưng trời chưa rạng sáng, đã có kẻ đến khuấy động niềm vui. Người toà án phái đến, do đích thân Tahe dẫn đường, xộc đến đập cửa phòng ầm ĩ và quát tháo:
- Hãy dậy đi, dậy đi ngay, hỡi ông hula kia! Đã đến lúc phải ra trước toà rồi đấy. Hãy dậy ngay.
Nghe gọi, chàng trai buồn bã thở dài, còn cô gái thì bật ra khóc. Nàng nói:
- Tội nghiệp chàng Culup của em, chàng phải trả giá quá đắt cho người vợ này.
- Nàng ơi, xin hãy lau khô nước mắt, tôi không sao chịu nổi nhìn thấy nàng khóc. Chúng ta chớ vội tuyệt vọng. Hãy tin tưởng trời sẽ đoái thương. Trời sẽ cứu giúp chúng ta qua cơn hoạn nạn. Nhờ tin có trời phù hộ, từ trước đến nay tôi chưa hề lo sợ trước bất kỳ hiểm nguy nào.
Chàng trai vừa nói vừa mặc vội áo quần, mở cửa phòng bước ra, theo anh lính đến trình diện quan chánh án. Vị thương gia Muzaphe và cậu con trai theo sau, trông hai người đều tỏ ra rất băn khoăn:
Vừa trông thấy Culup quan chánh án hỏi ngay:
- Thế nào, hỡi anh chàng hula kia, bây giờ anh tính thế nào? Liệu có biết điều hơn ngày hôm qua? Liệu có phải đánh đòn thêm nữa không để anh tuyên bố khước từ người vợ? Ta tin chắc chẳng cần. Chắc anh đã suy nghĩ kỹ. Anh thừa hiểu một người cầu bơ cầu bất chẳng ra cái thớ gì như anh, làm sao cứ một mực đòi giữ một người phụ nữ từng là phu nhân cậu Tahe đây.
Chàng Culup đáp:
- Lạy quan lớn, cầu Thượng đế cho ngài trường thọ. Nhưng xin mạn phép ngài cho tôi được trình, tôi không thuộc hạng người cầu bơ cầu bất. Tôi xuất thân con nhà danh gia vọng tộc. Để ngài rõ hơn, tôi xin được trình, tên tôi là Rucnêtdin, con trai độc nhất của một đại thương gia người thành phố Côgien tên là Maxaut. Thân sinh tôi còn giàu có hơn cả ngài Muzaphe đây. Nếu thân sinh tôi biết tôi vừa cưới vợ, tôi tin người khắc sai mang đến cho tôi ngay một đoàn lạc đà chở đầy vàng bạc, khiến cho tất cả các cô gái trong thành phố Samacan này ghen tị hạnh phúc của người tôi vừa cưới làm vợ. Chỉ vì mỗi một nỗi là khi gần đến thành phố này, tôi bị bọn trộm cướp đoạt hết tài sản, buộc phải vào trong thánh đường xin của làm phúc để sống tạm qua ngày, mà ngài đã vội kết luận tôi làm một người cầu bơ cầu bất chẳng ra cái thớ gì! Trình ngài, chẳng bao lâu nữa, ngài sẽ thấy ra ngài đã nhầm. Tôi sẽ viết thư cho thân sinh tôi ngay lập tức đây. Nhận được tin, chắc chắn cụ sẽ cho chuyển hoả tốc đến thành phố này vô vàn của cải.
Quan chánh án hỏi lại:
- Anh vừa bảo anh là con trai độc nhất của một thương gia giàu có thành phố Côgien, chỉ vì chẳng may gặp một tai nạn như anh vừa kể, khiến cho anh lâm vào cảnh khốn cùng?
- Hoàn toàn đúng như vậy, thưa ngài chánh án,- chàng trai con của thương nhân Abđala quả quyết. Rồi ngài sẽ thấy ngay, trình quan lớn, rằng tôi chẳng phải là một người khốn khổ từ khi sinh ra vẫn sống trong cảnh bần hàn.
- Này chàng trai trẻ kia,- quan chánh án dịu giọng- tại sao anh không bảo cho ta biết điều ấy ngay từ sáng hôm qua? Thì ta đã không cho anh phải chịu trận đòn?
Quay lại phía thương gia Muzaphe, chánh án nói tiếp:
- Thưa ngài Muzaphe, điều anh hula kia vừa trình bày trước toà án làm thay đổi sự tình mất rồi. Bởi anh ta là con trai duy nhất của một vị đại thương gia, luật pháp không cho phép chúng ta ép anh ta đuổi vợ đi.
Cậu cả Tahe nóng nảy ngắt lời quan:
- Bẩm ngài chánh án, lẽ nào ngài tin vào lời khai của tên dối trá kia? Nó xưng bừa nó là con trai của thương gia Maxaut là để tránh khỏi trận đòn hôm nay và tranh thủ thêm thời gian đó thôi.
Quan chánh án đáp:
- Ta chẳng thể xử trí theo cách khác. Cho dù anh ta nói dối hoặc nói đúng sự thật thì ta vẫn không được phép bỏ qua lời khai của bên bị. Tất cả những gì ta có thể làm giúp gia đình cậu lúc này là buộc chàng hula kia phải chứng minh được điều anh ta vừa nói:
Thương gia Muzaphe vội nói:
- Bẩm ngài chánh án, chúng tôi chẳng đòi hỏi gì hơn thế. Thậm chí tôi có thể chịu mọi chi phí để phái một người nhà hoả tốc tới ngay thành phố Côgien tìm hiểu cho rõ đen trắng. Tôi có quen biết ngài Maxaut ấy, vì có mấy lần gặp ông ấy ở đấy. Tôi biết ông là một thương gia giàu có. Nếu quả đúng anh hula này là con trai của ngài Maxaut, thì gia đình chúng tôi thuận để cô Đilara vẫn làm vợ anh ta.
- Vâng, cậu Tahe nói.- Nhưng trong khi chờ đợi người chúng tôi phái đi kịp trở về, tôi nghĩ cần bắt đôi vợ chồng ấy sống riêng mỗi người một nơi.
Quan chánh án đáp:
- Luật pháp không cho phép như vậy. Vợ phải sống chung với chồng. Chúng ta không thể ép vợ chồng người ta sống xa nhau mà không vi phạm luật pháp. Vậy, gia đình ngài Muzaphe hãy sai một người đi ngay Côgien, thành phố ấy chỉ cách đây bảy ngày đường. Như vậy nội trong mười lăm ngày, chúng ta sẽ biết rõ anh chàng hula này nói đúng hay sai. Nếu anh ta quả thật là con trai ngài Maxaut, thì anh ta có quyền không chối bỏ vợ. Nhược bằng không đúng vậy thì ta thề, nói có thánh địa Mêcca thiêng liêng chứng giám, nếu anh ta lừa dối toà, thì ta sẽ bắt kẻ nói dối phải chịu mọi cực hình đau đớn nhất, rồi cho treo cổ ngay.
Chuyển đến trang : 1, 2, 3, 4
26/8/2013, 20:03
#31Tiểu Tuệ
Tham gia : 30/06/2013
Bài viết : 1778
Điểm plus : 100000002
Được thích : 375
Re: [Truyện cổ Ba Tư] Nghìn lẻ một ngày - François Pétis De La Croix
Tiểu Tuệ26/8/2013, 20:56
#32Tiểu Tuệ
Tham gia : 30/06/2013
Bài viết : 1778
Điểm plus : 100000002
Được thích : 375
Re: [Truyện cổ Ba Tư] Nghìn lẻ một ngày - François Pétis De La Croix
Tiểu Tuệ- ............~♥:
- Chương 7 (F)
Ngày 41, 42, 43, 44
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI MỐT.
Sau lời phán quyết của chánh án, hai bên nguyên bị ra về. Thương gia Muzaphe và cậu con trai vội sai một người nhà đi cấp tốc đến thành phố Côgien, với lệnh phải tìm hiểu rõ ràng những điều toà muốn biết, và trở về đây càng nhanh càng tốt. Về phần mình, chàng Culup cũng vội vã quay trở về phòng riêng, thuật lại cho nàng Đilara hay sự tình diễn ra như thế nào tại toà án. Nàng vui mừng khôn xiết:
- Ôi, hỡi chàng yêu quý, thế là tốt rồi. Chúng ta không còn gì phải lo âu nữa. Trước khi người được phái đến Côgien kịp quay trở lại, thậm chí cả khi người ấy chưa tới nơi ấy, hai ta phải tìm cách trốn khỏi chốn này. Một đêm nào đấy, chúng ta sẽ tìm cách rời khỏi thành phố Samacan, sang thành phố Bôcara càng nhanh càng tốt. Rồi hai ta sẽ chung sống ở đấy bằng khoản tiền hồi môn mà em có. Bọn thù của chúng ta chẳng thể đến tận đấy quấy rối.
Culup tán thành ý kiến của Đilara. Họ bàn cách trốn. Nhưng ở ngôi nhà này, họ bị canh chừng chặt chẽ quá, làm sao thực hiện được ý đồ? Họ tính chuyện trước hết phải dời đi ở một nơi khác. Họ sẽ nói với thương gia Muzaphe mình muốn đi ở nơi khác; trường hợp ông ta không thuận, thì họ sẽ đến thẳng toà, xin phép quan chánh án. Vợ chồng bàn bạc xong, chàng trai con của thương gia Abđala vội tìm gặp ông Muzaphe cùng cậu con trai Tahe, báo cho họ biết nội nhật hôm nay hai vợ chồng muốn thay đổi chỗ ở. Chàng Culup nói, theo luật pháp, người chồng là ông chủ, chồng có quyền muốn đưa vợ đến nơi đâu tuỳ thích. Dĩ nhiên, vị thương gia và cậu con trai phản đối. Nhất là cậu cả Tahe. Cậu quả quyết chẳng bao giờ chấp thuận cho nàng Đilara ra khỏi nhà mình. Culup cũng không chịu thua. Thành thử lại phải kéo nhau đến cửa quan.
Quan chánh án hỏi, tại sao hai vợ chồng muốn rời khỏi nhà ông Muzaphe. Culup đáp:
- Bẩm quan lớn, thân sinh tôi cụ Maxaut nhiều lần dạy tôi, nếu ta đang sống cùng một nhà với kẻ thù của mình, thì phải nhanh chóng rời bỏ ngôi nhà ấy ngay càng sớm càng tốt. Vì vậy, trong khi chờ đợi tin tức từ thành phố Côgien, tôi muốn được đi nơi khác ở. Vợ tôi cũng mong muốn giống như tôi.
Cậu Tahe quát:
- Đồ dối trá! Nàng Đilara vợ tôi đang than khóc, nàng Đilara vô cùng đau khổ từ khi bị tên khốn nạn này làm chồng, thế mà hắn ta dám cả gan nói với toà rằng cô ấy không thích ở nhà chúng tôi.
- Đúng, tôi đã nói như vậy. Culup đáp- và bây giờ tôi nói lại cũng đúng như vậy. Người vợ yêu quý của tôi, cũng như tôi, cô ấy không mong muốn gì hơn được cùng tôi ra khỏi nhà anh ngay. Nếu sự thật không đúng như vậy, nếu nàng tỏ ý yêu thương anh, thì tôi sẵn sàng đuổi nàng ra ngay lập tức.
Cậu Tahe nắm lấy cơ hội, thưa với quan chánh án:
- Bẩm quan lớn, ngài nghe rõ rồi đấy, chúng tôi cũng nghe rõ từng lời điều anh hula này vừa nói. Xin quan hãy truyền cho gọi Đilara đến ngay đây, và cho phép cô ấy được bày tỏ ý kiến của mình.
Chánh án nói:
- Ta chấp thuận. Quan phó à,- ông nói với Đalitmen lúc ấy cũng đang có mặt tại toà. Ông hãy đến nhà ngài Muzaphe đây, nói với bà Đilara rằng tôi muốn nói chuyện với bà. Ông hãy dẫn bà đến đây, chúng ta khắc biết rõ bà nghĩ như thế nào. Nếu bà công khai nói khác lời anh hula kia vừa quả quyết, thì ta quyết định ngay lập tức bà ấy có thể rời bỏ anh chàng.
Viên phó chánh án nhanh nhảu làm nhiệm vụ. Ông dẫn nàng Đilara đến trước toà. Nàng vừa đến nơi, quan chánh án hỏi:
- Bà có muốn ra khỏi nhà thương gia Muzaphe không? Có đúng là bà quý anh hula này hơn người chồng trước của mình?
Chàng Tahe chắc mẩm vợ sẽ đứng về phía mình, vui mừng không tự chủ nổi, nhanh nhảu nói:
- Bà ơi, bà hãy nói lên đi, chỉ cần nói ra bà thực sự quý yêu ai, tôi hay chú hula kia, bà sẽ được giải thoát ngay lập tức khỏi con người bà căm ghét ấy.
Nàng Đilara không chờ người khác thúc giục nhiều hơn:
- Nếu được mọi người bảo đảm cho sẽ thực hiện đúng như lòng tôi mong ước, thì tôi chẳng dám giấu diếm chút gì. Chồng thứ hai của tôi, tức con trai đại thương gia Maxaut đây là người được tôi thương yêu hết mực. Vì vậy, tôi khúm núm van xin ngài chánh án cho phép vợ chồng chúng tôi được đi ở nơi khác, chứ không phải ở trong nhà ông Muzaphe thêm nữa.
Quan chánh án quay nhìn cậu Tahe:
- Đấy, anh đã nghe rõ rồi đấy, chàng hula kia có dối trá gì đâu, anh ta nói đúng sự thực đấy chứ.
- Ơ con phản trắc! Tahe hét toáng lên, choáng váng bởi lời thú nhận của người từng là vợ mình. – Làm sao chỉ qua mỗi một đêm thôi mà cô đã bị nó làm cho mê mẩn dường ấy?
Quan chánh án phán:
- Ta thông cảm với anh, nhưng sự tình như vậy, ta không thể không cho phép hai người này được muốn dời đi ở đâu, tuỳ ý.
- Vậy là ngài chịu để cho tên ngoại quốc kia thắng cuộc sao? cậu Tahe nói.- Trong khi vẫn chưa biết chắc nó có đúng là con trai ông Maxaut thật hay không, ngài lại cho phép nó được sống vô tư cùng nàng Đilara?
Quan chánh án nói:
- Không hẳn thế. Nó phải chịu trách nhiệm những lời nó nói. Nếu nó dối trá, ta sẽ cho treo cổ nó ngay.
Cậu con trai thương gia Muzaphe vẫn chưa chịu:
- Vậy ngài nghĩ nó không biết lo phải tội sao. Nó ngu ngốc gì đến nỗi khoanh tay ngồi yên trong thành phố này, chờ đến khi gia đình chúng tôi nhận được tin tức xác thực từ thành phố Côgien? E ngài nhầm lẫn mất rồi, kính thưa ngài chánh án. Chắc chắn là nó có mưu đồ trốn khỏi Samacan, và rồi nó sẽ dụ dỗ người đàn bà kia cùng đi theo nó. Thật ra, âm mưu của hai người ấy ngay bây giờ đã rõ, họ muốn chuyển đi ở nơi khác chẳng qua để dễ bề thực hiện mưu đồ mà thôi.
- Việc chạy trốn không thể xảy ra- quan chánh án quả quyết.- Ta sẽ lưu tâm đến việc ấy. Cho dù hai người có chuyển đi ở một nơi nào khác trong thành phố, ta chịu trách nhiệm phái một tốp lính thật đông đảo canh chừng và trình cho ta biết ngay mọi động tĩnh.
Vậy là chàng Culup và nàng Đilara được tự do rời ngôi nhà thương gia Muzaphe. Ngay trong ngày hôm ấy họ ra đi, đến trú tại một nhà trọ dành cho du khách. Họ mua vài tên nô lệ về phục dịch hằng ngày. Không lo thiếu tiền, bởi nàng Đilara có sẵn một khoản tiền hồi môn lớn, chưa tính bao nhiêu ngọc ngà châu báu vẫn đeo trên người. Thoạt tiên, hai người ngỡ lúc này chỉ còn có chuyện vui chơi cho thoả. Mấy ngày đầu, họ quên hết mọi thứ, như thể không có toán lính của quan chánh án đang kè kè bên cạnh, canh chừng suốt ngày đêm.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI HAI.
Câu chuyện về anh chàng hula ấy, mặc cho ngài thương gia Muzaphe và cậu con trai cả cố giữ kín đến đâu, cũng không khỏi chẳng mấy chốc loan truyền khắp kinh thành Samacan. Không ít người nghe đồn đại, muốn tìm xem mặt tận mắt hai người yêu, thử coi họ sống ra sao. Ở đời thiếu chi người hiếu kỳ, thành thử ngày nào chàng Culup và nàng Đilara cũng phải tiếp khối vị khách kiếm cớ đến thăm.
Một hôm, có một vị ăn mặc rất đàng hoàng, đến xưng mình là một quan chức trong triều đình. Nhà vua đã biết chuyện vừa xảy ra tại toà án, sai ông đến đây tìm hiểu, và báo cho ông bà biết hoàng thượng quan tâm theo dõi số phận của họ. Ông quan nói năng rất mực nhã nhặn, lại hứa sẽ cố gắng hết mình giúp đỡ. Để tỏ lòng biết ơn, hai vợ chồng mời khách nán lại dùng cơm. Và để bày tỏ tấm lòng kính trọng đối với vị khách, bà chủ nhà cất tấm mạng che mặt. Ông quan cực kỳ ngạc nhiên trước sắc đẹp ít thấy của người đàn bà, không thể không thốt lên:
- Ôi, giờ đây tôi chẳng còn ngạc nhiên, sao ngài lại tỏ ra kiên trì đến vậy tại toà án, thưa ngài hula.
Ba người ngồi vào bàn. Nhiều thức ăn đặc sản được dọn ra. Có đủ thứ cao lương mỹ vị, như các món bogra, món culat, món đombê… Sau bữa ăn chính, thức uống được mời, nào vang đỏ vùng Sirat, vang trắng miền Kitmy, rượu hồng thơm ngát xứ Rakimo, …Sau khi dùng tráng miệng, nàng Đilara gọi người nhà đưa cho mình một chiếc trống con, rồi vừa nhịp trống vừa hát một khúc ca theo điệu uzan. Tiếp đó nàng lại gọi lấy cây đàn dây, vừa đàn vừa hát tài hoa đến nỗi ông quan kia vô cùng thán phục.
Cuối cùng nàng Đilara cầm chiếc lục huyền cầm, vừa đệm đàn vừa hát một bản tình ca theo dạng thức nava, dạng thức này thường được dùng để bày tỏ lòng thương nhớ của các người tình chung thủy chẳng may gặp cảnh chia lìa.
Lời bài hát này do chính nàng đặt ra hồi ở thành phố Caracorom, sau ngày Culup bị thất sủng và bỏ đi không lời từ biệt. Lời ca gợi chàng trai nhớ lại những ngày huy hoàng ở kinh đô ấy và bỗng dưng trở nên rầu rĩ. Chẳng bao lâu sau, dường như không chịu nổi chàng bật ra khóc. Vị phái viên của nhà vua nhìn thấy rất ngạc nhiên, hỏi tại sao chàng khóc. Chàng trai con thương nhân Abđala đáp:
- Than ôi, ngài biết rõ nguyên nhân phỏng có ích gì. Ngài chẳng nên mất công tìm hiểu. Chả là tôi vừa nhớ lại các nỗi bất hạnh từng trải qua và suy nghĩ lo âu về những điều không may sắp xảy tới, làm tôi không sao cầm được nước mắt.
Câu trả lời không thoả mãn ông quan, ông khẩn khoản:
- Này, chàng trai trẻ người nước ngoài ơi, nhân danh Thượng đế, chàng hãy kể tôi nghe những chuyện từng xảy ra với chàng. Tôi hỏi không phải vì tò mò. Tôi muốn biết để còn tìm cách giúp đỡ. Rồi đây chàng chẳng phải hối tiếc là đã tâm sự với tôi. Hãy nói cho tôi biết chàng là ai. Tôi nhìn dáng chàng, chắc cũng là con gia đình giàu có; chàng hãy mạnh dạn nói ra, chớ nên che giấu điều gì.
- Trình ngài,- chàng Culup đáp- chuyện của tôi hơi dài dòng, kể ra chỉ làm ngài chán tai.
- Không, không đâu, thậm chí tôi còn yêu cầu ngài chớ nên bỏ qua một chi tiết nào.
Thế là chàng Culup bắt đầu kể chuyện về cuộc đời mình. Chàng nói hết chẳng chút giấu diếm. Chàng thú thật mình không phải là con trai của đại thương gia Muxaut, sở dĩ phải dối trá như vậy may ra có cơ hội cùng nàng Đilara chạy trốn khỏi nơi này. „Nhưng, -chàng nói tiếp- sự dối trá của tôi không mang lại kết quả mong muốn. Chẳng ai tin lời tôi. Người ta đã sai một người hoả tốc đến thành phố Côgien tìm hiểu sự tình. Chỉ ba ngày nữa thôi, người ấy sẽ quay trở lại. Đến lúc ấy, quan chánh án cho đến ngày hôm nay vẫn giam lỏng và canh chừng chúng tôi , thế nào sẽ chẳng nhận ra tôi dối trá và ngài sẽ bắt tôi chết một cách nhục nhã. Chẳng phải tôi lo buồn vì sợ chết lắm đâu; tôi chỉ khổ nỗi sẽ phải cách xa mãi mãi người mình yêu quý. Chính điều này mới làm cho tôi vô cùng đau khổ“. Chàng trai vừa kể chuyện vừa thở dài, thỉnh thoảng còn tuôn nước mắt. Người vợ cũng không ngăn nổi giọt lệ của mình. Cảnh tượng ấy làm phái viên nhà vua động lòng trắc ẩn. Ông nói:
- Tôi xúc động trước nỗi buồn lo của hai ông bà. Tôi sẽ cố sức giúp đỡ hai người. Cầu trời cho tôi làm được việc ấy. Tôi biết chẳng phải dễ dàng đâu. Ngài chánh án là một vị quan toà công mình và không khoan nhượng bao giờ. Một khi biết mình bị lừa dối, ông ta chẳng tha thứ cho ngài. Tất cả những gì tôi có thể khuyên hai ông bà là hãy vững tin trời đất sẽ đoái thương mà cho được mau thoát khỏi cơn hoạn nạn.
Nói đến đấy viên quan cáo từ ra về. Chờ khách đi khỏi, nàng Đilara than với chồng:
- Trên đời thật có lắm người kỳ lạ. Họ tự tìm đến, nói sẵn sàng giúp đỡ chúng ta. Thấy chúng ta buồn bã, họ thôi thúc ta kể hết mọi chuyện cho nghe, bảo để còn tìm cách giúp đỡ cho ta bớt phiền muộn. Sau khi nghe chán chê, họ chỉ ban cho một lời khuyên hãy nên kiên nhẫn. Khi ông này mới đến, thoạt trông thái độ của ông ta có vẻ nhiệt tình cảm thông nỗi bất hạnh của chúng mình, em cứ ngỡ rồi thế nào ông ta cũng giúp cho không việc này thì việc khác. Thế mà sau khi nghe hết mọi chuyện về cuộc đời chúng ta, ông ta lại lẳng lặng ra đi, phó mặc chúng ta cho số phận.
- Nàng ơi,- chàng Culup khuyên giải- Nàng muốn ông ta có thể làm gì cho chúng mình? Công bằng mà nói, ông quan ấy trông có vẻ một con người đôn hậu, chắc không phải do hiếu kỳ mà muốn biết tâm sự của chúng ta. Nhưng, người trần sao có cách giúp người khác thoát khỏi định mệnh hẩm hiu thiên tào đã định. Việc ấy chỉ có trời. Ông trời có đoái thương nhìn lại, may ra chúng ta mới có cơ thoát khỏi hiểm nghèo.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI BA.
Đôi vợ chồng đáng thương hết sức buồn bã nghĩ đến số phận của mình, không thôi than thở. Họ cũng tính cách làm sao trốn thoát. Thoạt tiên họ định mua chuộc những người lính canh nhưng không đi đến kết quả. Thế mà ngày thứ mười lăm sắp đến rồi, ngày mà không ít người chờ đợi, như gia đình ông Muzaphe, cứ ngóng trông người được phái đi Côgien mau chóng quay trở lại. Thời gian qua, trong khi hai vợ chồng hết sức lo âu thì cậu con trai cả của thương gia Muzaphe vô cùng sốt ruột. Khi cái ngày ghê gớm ấy đến, khi mặt trời vừa rạng, chàng Culup nghĩ hôm nay là ngày cuối cùng mình được nhìn thấy ánh sáng mặt trời đây, trở dậy sẵn sàng đi chịu chết. Chàng buồn bã nói với người yêu:
- Xin vĩnh biệt nàng. Tôi đi đây, đành tuân theo số phận. Tôi mang đầu tôi đến giao quan chánh án. Còn nàng, hỡi nàng Đilara xinh đẹp, xin nàng cố sống, và thỉnh thoảng nhớ đến một người từng yêu nàng tha thiết.
Nàng Đilara bật khóc nức nở:
- Chàng Culup ơi, chàng đi chịu chết, sao chàng nỡ lòng nào bảo riêng em cứ sống! Chàng nghĩ em cho mình được sống là vui thú lắm hay sao? Không đâu, em chỉ muốn cùng chết theo chàng, em chỉ muốn cùng chàng chui chung vào một nấm mộ. Này hỡi cậu Tahe kia, cậu Tahe đáng ghê tởm kia, rồi mày sẽ thấy mày không thể mừng vui trước cái chết của chồng ta. Chàng Culup ơi, tại sao chàng phải chết? Gây nên tội này là tại em. Chính em là người khuyên chàng nói dối trước toà, chính em đưa chàng đến cái chết. Sao tội em không bị trừng phạt? Nào, hai vợ chồng ta hãy cùng đến nơi xử giảo! Em muốn mọi người thấy em thà cùng được chết với chàng còn hơn được sống một mình.
Trong khi hai vợ chồng mải thở than, chợt nghe có tiếng ồn ào trên đường phố. Chỉ lát sau, xuất hiện trong sân nhà đích thân quan chánh án, theo sau có nhiều người nữa cùng đi, kể cả thương gia Muzaphe và cậu con trai. Trước cảnh tượng ấy, nàng tiểu thư con gái ngài Boyruc ngất xỉu. Trong khi những người giúp việc tìm cách giúp nàng hồi tỉnh, chàng Culup đàng hoàng bước ra đón quan chánh án. Nhưng vị quan toà ấy hoàn toàn không có vẻ đến đây để bắt chàng mang đi xử giảo, ngược lại, cúi chào chàng khá trọng thị và vừa cười vừa nói:
- Thưa ngài, người mà chúng ta sai hoả tốc đi thành phố Côgien vừa trở về. Cùng đi, có một gia nhân của đại thương gia Maxaut thân sinh ngài. Ngài Maxaut có sai gửi đến cho ngài bốn mươi con lạc đà chở nhiều vải vóc lụa là cùng nhiều hàng hoá quý khác. Toà án cũng như mọi người không có gì phải nghi ngờ nữa. Ngài đúng là con trai của vị đại phú thương. Mong ngài quên đi cho sự đối xử không đẹp chúng tôi bắt ngài phải chịu đựng mấy ngày qua.
Sau khi quan chánh án nói những lời trên làm Culup ngạc nhiên không thể nào tả xiết, đến lượt thương gia Muzaphe và cậu con trai bày tỏ với chàng hula, họ cũng cảm thấy rất phiền lòng về chuyện chàng bị đòn oan. Cậu Tahe nói:
- Tôi tuyên bố từ bỏ ý định đòi nàng Đilara trở lại làm vợ mình. Tôi chấp nhận từ nay nàng là phu nhân của ngài. Tôi xin giao nàng cho ngài, với điều kiện nếu một ngày nào đó ngài nảy ra cái ý cắc cớ khước từ và đuổi nàng ra khỏi nhà, để rồi sau đấy lại muốn nàng quay trở lại với mình, thì lúc ấy xin ngài hãy chọn tôi làm hula.
Culup chẳng biết nên nghĩ thế nào về tất cả những lời vừa nghe. Chàng ngỡ cậu Tahe cũng như quan chánh án muốn giễu cợt mình, và họ sắp đổi giọng tới nơi, thì một tên nô lệ bước tới, nâng tay chàng đưa lên môi hôn và trao cho chàng một bức thư. Y nói:
- Thưa công tử, hai cụ thân sinh và thân mẫu của ngài đều bình yên khoẻ mạnh. Các cụ rất thiết tha muốn được gặp lại ngài. Hai cụ luôn mong ngài trở lại nhà.
Chàng Culup đỏ bừng mặt khi nghe nói như vậy, chưa biết nên đáp thế nào. Chàng đón bức thư mở ra và đọc những dòng sau đây:
„Ngợi ca Thượng đế, chỉ có mỗi một Thượng đế trên đời. Xin Người hãy ban ơn rộng khắp xuống ngài đại tiên tri Môhamêt và toàn thể gia đình bạn bè của ngài. Con trai thân yêu của ta ơi, từ ngày con rời nhà ra đi, cha chẳng lúc nào ngủ được yên giấc. Lòng cha như có gai nhọn đâm bên trong. Cha luôn luôn mong nhớ con. Sự vắng mặt của con là liều thuốc đắng đặt trong trái tim cha, làm cho cha mòn mỏi. Người mà ngài Muzaphe vừa phái đến đây có nói cho cha hay những gì đã xảy ra với con. Thế là cha vội vã cho đóng hàng chất lên lưng bốn mươi con lạc đà, đấy là những con lạc đà lông đen có những đôi mắt tròn, và cha khẩn cấp gửi tất cả đến thành phố Samacan cho con. Đoàn lạc đà này đặt dưới sự điều khiển của Giohe, người quản lạc đà chuyên phụ trách vận chuyển hàng hoá đường dài của gia đình ta ấy. Con hãy mua mau cho cha biết hiện nay sức khoẻ của con thế nào, cho cha đỡ nhớ mong
Cha của con: Maxaut“.
Chàng trai con của thương nhân Abđala vừa đọc xong bức thư, thì đoàn bốn mươi con lạc đà xuất phát từ thành phố Côgien đến đã vào hết trong sân. Viên quản lạc đà tên là Giohe nói với chàng:
- Kính thưa chủ nhân, xin ngài vui lòng truyền cho chúng tôi được giở hàng hoá trên lưng lạc đà xuống và xếp tạm vào một gian nào đó.
Chàng Culup tự mình hỏi mình: “Thế nào là thế nào nhỉ? Trong đời ta đã nhìn thấy biết bao nhiêu chuyện lạ kỳ, nhưng chuyện này kỳ lạ hơn tất thảy. Anh chàng tên là Giohe này nói với ta như thể đã quen biết ta từ lâu. Quan chánh án và thương gia Muzaphe đều có vẻ như đang muốn lấy lòng ta. Đã vậy thì, cho dù chưa rõ nguyên nhân đâu vào đâu, sao ta lại không lợi dụng chuyện này cơ chứ. Chắc đây là định mệnh muốn cứu giúp ta thoát cơn hoạn nạn. Chắc Trời ban phép thần xuống cứu vớt ta đây.”
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI TƯ.
Mặc dù hết sức kinh ngạc về sự kiện lạ kỳ đang diễn ra, chàng Culup vẫn có đủ nghị lực che dấu sự ngạc nhiên. Chàng bình thản hạ lệnh cho giở hàng hoá mang vào xếp trong nhà, và truyền mọi người hãy chú ý chăm sóc đàn lạc đà. Thậm chí chàng còn đủ tự nhiên cất lời hỏi người quản đoàn lạc đà:
- Ông Giohe à, xin ông cho tôi biết tin tức về tất cả gia đình họ hàng tôi ở Cogien. Có người anh em hay chị em họ nào của tôi chẳng may đau ốm gì không?
- Trình ngài không- Giohe đáp. –Ơn Thượng đế, tất cả gia đình ta cũng như bà con họ mạc xa gần đều an khang. Chỉ có cụ thân sinh ngài là luôn luôn mong nhớ ngài, cụ trông ngài chóng trở lại nhà. Cụ bảo tôi thưa với ngài, cụ rất mong ngài cùng với phu nhân mau mau trở lại thành phố Côgien.
Chuyện trò giữa người quản đoàn lạc đà với chàng Culup càng làm quan chánh án, cậu Tahe và mọi người ai cũng tin chàng trai này quả thật là con của đại thương gia Maxaut. Mọi người xin cáo từ. Trước khi lui gót, quan chánh án không quên ra lệnh cho toán lính canh đôi vợ chồng mới cưới được trở về doanh trại.
Khi mọi người đã ra về hết, Culup quay vào phòng. Nhờ có sự chăm sóc của những người giúp việc, nàng Đilara đã tỉnh trở lại. Chàng kể tóm tắt cho nàng nghe những điều vừa xảy ra và đưa nàng xem bức thư của thương gia Maxaut gửi. Đọc xong thư, nàng thốt lên:
- Lạy Thượng đế vô cùng công minh, đại lượng! Tạ ơn Người đã tạo nên chuyện thần kỳ. Người đoái thương hai đứa tình nhân chung thuỷ, mà Người đã cho kết giao hai số phận lại với nhau.
Culup nói:
- Bà ơi, lúc này chưa phải chúng ta có thể vui mừng trọn vẹn. Mọi khổ ải của chúng ta chưa phải đã qua hết. Chúng ta vẫn đang trong cơn hiểm nghèo ghê gớm. Nàng bảo tôi hãy xưng đại tên một người, người ấy lúc này chắc đang có mặt tại Samacan. Con trai của đại thương gia Maxaut chắc chắn đang ở trong thành phố này. Thân sinh ông ta đã viết thư cho ông, và gửi cho ông bốn chục con lạc đà chở đầy hàng hóa đặt dưới sự cai quản của ông Giohe. Và ông Giohe này hình như chưa bao giờ được giáp mặt con trai cụ chủ của mình, cho nên cứ theo người nhà ông Muzaphe phái đến Côgien mà tới đây. Chúng ta dễ hình dung những việc gì rồi sẽ xảy ra. Sự nhầm lẫn ấy lúc này có thể thuận lợi cho chúng ta, nhưng niềm vui của chúng ta đâu có thể kéo dài. Giờ đây chúng ta còn không bị quản thúc, không có lính tráng canh chừng nữa, phải mau mau trốn chạy khỏi nơi đây. Lúc này, tin đồn đại về đoàn bốn chục con lạc đà hẳn đã lan khắp kinh thành Samacan. Người con trai thật của thương gia Maxaut sớm hay muộn thể nào chẳng biết. Ông ta sẽ tìm gặp quan chánh án, trình bày quan rõ đã có sự nhầm lẫn. Ai biết được lúc nào thì ông quan toà ấy quay trở lại nhà ta, sai người dẫn tôi tới luôn giá treo cổ.
Lập luận như vậy, chàng Culup vừa phập phồng lo sợ vừa tràn trề hy vọng, không biết lúc này mình có nên mong ước nữa hay không. Thời gian mỗi lúc mỗi qua, mỗi lúc chàng lại ngỡ nhìn thấy cậu Tahe và quan chánh án đã thấy rõ sự thật, đang nổi giận đùng đùng cùng nhau kéo tới. Giữa lúc nước sôi lửa bỏng ấy, vị phái viên của nhà vua, người hai hôm trước đến tìm gặp hai vợ chồng tại nhà, vừa bước vào vừa nói:
- Thưa ngài hula, tôi vừa biết tin mọi nỗi bất hạnh của ngài đã chấm dứt. Cuối cùng trời đã đoái thương nhìn lại ngài. Tôi đến đây xin được bày tỏ niềm vui với ngài, đồng thời tôi cũng muốn ngỏ lời trách ngài một điều: Ngài đã không thành thật với tôi: tại sao ngài nói ngài không phải là con trai của thương gia Maxaut? Ngài đánh lừa tôi làm chi vậy?
- Tôi đã nói với ngài đúng sự thật, kính thưa ngài- chàng Culup vội đáp. Tôi không phải là người thành phố Côgien, tôi sinh ra và lớn lên ở Đamat, như tôi từng có dịp thưa với ngài. Thân sinh tôi mất đã lâu, và tôi đã tiêu xài hoang phí hết tất cả tài sản người để lại cho tôi.
Viên quan nói:
- Nhưng mọi người đều đồn đại ngài vừa nhận bốn mươi con lạc đà chở đủ thứ vải vóc hàng hoá đến cơ mà. Mọi người đều bảo vị đại phú thương Maxaut đích thân viết thư cho ngài, như thể ngài chính là con trai của cụ?
- Quả thật tôi có nhận thư và hàng hoá của thương nhân Maxaut. Nhưng không phải vì thế mà tôi trở thành con trai của ông ấy.
Viên quan lại hỏi sự tình xảy ra như thế nào. Chàng hula thuật lại đầy đủ chi tiết. Nghe xong, ông nói:
- Tôi cũng nghĩ như ông, đây là một sự nhầm lẫn. Người con trai của ông Maxaut chắc hiện đang có mặt tại thành phố Samacan. Vì vậy, tôi nhất trí với ngài, hai ông bà nên trốn đi ngay đêm hôm nay.
- Đấy cũng chính là ý định của chúng tôi, thưa ngài, -chàng Culup đáp.- Miễn là từ giờ đến sáng sớm mai vẫn chưa có ai báo cho quan chánh án biết quan đã nhầm lẫn. Chúng tôi chẳng dám mong gì hơn thế.
- Về việc ấy ngài chớ nên lo âu- ông quan lại nói.- Hy vọng mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhẽ nào trời lại muốn cho ngài lâm nạn, bởi trời vừa tạo ra sự thần kỳ, nhờ đó ngài tránh được trận nhục hình mới.
Viên quan còn nói nhiều điều khác nữa khích lệ đôi vợ chồng bớt lo sợ. Sau đó chúc họ mọi sự tốt lành và xin cáo từ.
Còn lại trong nhà hai vợ chồng, họ bàn với nhau chuẩn bị chạy trốn tối hôm nay. Hai người sốt ruột muốn trời tối mau mau. Nhưng trời chưa tối thì đã lại nghe có tiếng ồn ào. Rồi đột nhiên có rất nhiều quân sĩ tiến cưỡi ngựa tiến vào bên trong sân. Cảnh tượng này khiến đôi vợ chồng hết sức kinh hoàng, những tưởng đây là lính tráng quan chánh án phái tới áp giải chàng trai đi xử tử. Nhưng họ hết lo sợ ngay khi biết đây là quân lính của nhà vua. Viên chỉ huy xuống ngựa, nơi Culup đang ngồi cùng vợ. Ông ta lần lượt chào hai người một cách kính trọng, rồi nói với chàng Culup như sau:
- Thưa ngài, Hãn Uzbec, nhà vua vĩ đại của chúng ta sai tôi tới đây. Đức vua muốn gặp con trai của ngài đại thương gia Maxaut. Đức vua đã biết câu chuyện xảy ra với ngài, hoàng thượng muốn nghe đích thân ngài thuật trình. Vì vậy, Đức vua gửi ngài chiếc áo chầu này, để ngài mặc khi vào chầu yết đức vua cho hợp lễ.
Chàng con trai của thương nhân Abđala nghĩ giá mình không phải làm việc này thì hay biết bao. Tuy nhiên không thể không tuân lệnh đức vua. Chàng mặc chiếc áo chầu vào, theo viên chỉ huy và toán quân sĩ ra khỏi nhà. Viên chỉ huy mời chàng cưỡi lên một con lừa thắng yên cương vàng khảm ngọc. Một tên giám mã ăn mặc sang trọng giữ bàn đạp và thưa với chàng:
- Đây là con lừa lấy trong đội lừa ngựa của hoàng gia. Xin mời ngài hãy lên yên cho. Tôi xin phép dẫn đường ngài tới hoàng cung.
Culup bước đến gần, viên giám mã hạ thấp bàn đạp xuống cho chàng đặt chân lên. Chàng hula nhẹ nhàng nhảy lên yên, cùng với toán quân sĩ đi vào hoàng cung.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI LĂM
Vừa tới cổng hoàng cung, đã thấy nhiều quan hầu chực sẵn nghênh đón, mời chàng qua cổng chính vào tận gian phòng lớn, nơi đức vua vẫn tiếp các sứ thần nước ngoài. Đến sân, đích thân đại tể tướng của nhà vua bước đến, cầm tay chàng dẫn vào trong phòng. Đức vua mặc chiếc hoàng bào đính nhiều kim cương, hồng ngọc và bích ngọc, đang ngồi trên chiếc ngai làm bằng ngà voi. Các vị đại thần triều đình Tartari xếp hàng đứng chầu hai bên. Choáng ngợp trước cảnh huy hoàng, chàng Culup không dám ngước lên nhìn thẳng vào nhà vua. Chàng cui mặt xuống đất, tiến đến gần và quỳ mọp dưới chân ngai. Đức vua phán:
- Chàng con trai của thương gia Maxaut à, người ta tâu cho ta biết, vừa xảy ra với anh nhiều việc lạ lùng. Ta muốn anh đích thân thuật lại ta nghe đầy đủ câu chuyện, không được che dấu điều gì.
Chàng Culup nhận ra giọng nói quen quen, ngước mắt nhìn và nhận ra đức vua chính là người đàn ông hôm nào từng đến thăm hai vợ chồng và xưng mình là phái viên của Hãn Uzbec, và chàng đã dốc hết bầu tâm sự với ông ta. Chàng vội vàng phủ phục xuống đất và bắt đầu khóc. Tể tướng đỡ chàng dậy và nói:
- Chớ nên quá sợ hãi, chàng trai à. Hãy tiến đến gần hơn và hôn gấu áo của đức vua.
Chàng con trai của thương nhân Abđala làm theo, vừa run vừa tiến đến sát chân vua, hôn gấu chiếc áo hoàng bào, đi thụt lùi mấy bước rồi đứng yên như phỗng, đầu vẫn chưa dám ngước lên. Nhà vua Hãn Uzbec đã bước xuống ngai, cầm tay chàng, dẫn chàng vào phòng riêng của mình. Vua cho chàng biết:
- Culup ạ, từ nay anh chớ có lo lắng gì thêm. Chớ nên than vãn số phận hẩm hiu. Từ nay, anh không phải chịu đau khổ nữa. Sẽ không có ai dám buộc anh phải xa cách nàng Đilara của anh. Hai vợ chồng anh sẽ sống ở đây, ngay trong triều đình ta. Ta sẽ giao cho anh chức vụ mà anh từng giữ ở Caracorom, tại triều đình vua Meagiêhan. Hôm trước, sau khi ta nghe tâu tấm lòng chung thuỷ của anh đối với vợ, vì hiếu kỳ ta thân hành đến gặp anh. Anh đã làm ta hài lòng. Sự tin cậy của anh đặt vào ta khiến ta đi đến quyết định cứu sống anh, và cho phép anh sống lâu dài hạnh phúc với người anh yêu quý. Chính ta đã sai làm tất cả mọi việc anh từng nhìn thấy tận mắt. Bốn mươi con lạc đà người ta dẫn đến nhà anh ấy, thuộc lạc đà trong hoàng cung ta. Ta đã sai mua tất cả số vải vóc xếp lên lưng đoàn lạc đà. Viên Giohe cai quản đàn lạc đà ấy không ai khác một hoạn quan của ta ít có dịp ra ngoài hoàng cung. Ta đã sai quan hầu viết bức thư anh đã nhận được. Sợ người nhà Muzaphe phái đi Côgien quay trở về có nói ra sự thật chăng, hôm qua ta đã sai người đón nó dọc đường, truyền cho nó biết lệnh ta, là phải trình với chủ nhân nó khớp theo cách ta mong muốn. Đấy là thêm một niềm vui nữa. Tất cả những việc làm trên đều là niềm vui đối với ta.
Nhà vua nói xong, chàng Culup quỳ lạy. Chàng cảm tạ nhà vua và hứa suốt đời sẽ chẳng bao giờ quên được ơn sâu. Ngay ngày hôm ấy chàng trai đưa nàng Đilara vào ở trong hoàng thành. Hãn Uzbec cấp cho họ một ngôi nhà lộng lẫy, kèm theo cùng một khoản bổng lộc lớn. Đức vua còn nhờ nhà văn nổi tiếng nhất thành phố Samacan thời bấy giờ chép lại câu chuyện tình giữa chàng Culup và nàng Đilara.
Bà nhũ mẫu Farucna kể xong chuyện chàng Culup, ngừng lời để lắng nghe nàng công chúa sẽ nói lên cảm tưởng của mình về câu chuyện ra sao. Vốn có định kiến sâu sắc với đàn ông, công chúa không đồng tình với ý kiến của các người hầu, ai cũng cho rằng chàng trai con thương gia Abđala quả là một tình nhân hoàn hảo. Công chúa nói:
- Không, không, chẳng phải thế đâu. Tại sao khi anh chàng bị đuổi khỏi triều đình vua Kêrait, anh ta rời kinh thành Caracorom ngay mà không tìm cách gặp để từ biệt Đilara? Tại sao anh ta chẳng buồn ngỏ lời với nàng? Ừ thì ta công nhận là nhà vua quả có ra lệnh cho anh rời khỏi thành phố ngay tức khắc. Nhưng đã yêu nhau thì phải tìm ra cách gặp nhau chứ. Đúng ra anh chàng phải nghĩ ra cách làm sao gặp được và từ biệt cô con gái thượng thư Boyruc mà anh chàng lúc nào cũng bảo mình rất yêu quý. Chẳng phải ta chỉ chê trách có mỗi một việc ấy thôi. Tại sao vừa đặt chân đến Samacan có mấy ngày, chàng ta đã quên luôn người yêu của mình, và sẵn sàng đóng vai hula như vậy? Hơn nữa, khi đã nhận ra đúng người yêu của mình rồi, anh chàng vẫn muốn giữ vẹn lời thề và đòi sẽ tuyên bố đuổi vợ đi, tại sao vậy? Nếu cô ấy không khóc lóc thở than, thì anh chàng chắc đã không dám chối bỏ lời thề. Một tình nhân thật sự yêu đương đâu có xử sự như vậy?
Bà nhũ mẫu Xutlumêmê nói:
- Thưa công chúa, chính vì muốn giữ danh dự cho nên phản ứng đầu tiên của chàng Culup là sẽ giữ vẹn lời thề, riêng tôi thấy ta không nên chê trách chàng về việc ấy. Nhưng thưa công chúa,- bà nhũ mẫu nói thêm,-bởi vì công chúa là người tế nhị đến vậy, tôi xin được kể một câu chuyện khác. Rồi công chúa sẽ thấy chuyện tôi sắp kể đây còn thú vị hơn nhiều chuyện chàng Culup hay chuyện chàng Abuncaxem.
Tất cả người hầu của nàng công chúa nghe bà nhũ mẫu nói vậy đều reo lên mừng rỡ. Bởi tất cả đều hiếu kỳ muốn nghe câu chuyện mới.
Vừa nghe công chúa Farucna cho phép, bà Xutlumêmê bắt đầu kể câu chuyện ấy như sau:
26/8/2013, 20:57
#33Tiểu Tuệ
Tham gia : 30/06/2013
Bài viết : 1778
Điểm plus : 100000002
Được thích : 375
Re: [Truyện cổ Ba Tư] Nghìn lẻ một ngày - François Pétis De La Croix
Tiểu Tuệ- ............~♥:
- Chương 8
CHUYỆN HOÀNG TỬ CALAP VÀ CÔNG CHÚA NƯỚC TRUNG HOA
Công chúa đã nghe chuyện chàng Culup, giờ đây tôi xin kể chuyện chàng hoàng tử Calap, con một nhà vua- xứ ấy gọi vua là Hãn-thủ lĩnh người bộ tộc Nogai thuộc xứ Tartari. Sử sách không tiếc lời ngợi ca chàng trai kiệt xuất. Sử ký thời ấy chép rằng hoàng tử vượt trội mọi chàng trai con vua cháu chúa trên đời cả về trí tuệ sắc sảo và võ nghệ cao cường. Chàng hiểu biết rộng hơn nhiều học giả uyên thâm nhất. Chàng thông suốt ý nghĩa huyền bí của mọi lời chú giải Thánh Kinh Coran. Chàng thuộc lòng tất cả các vần thơ của đức Môhamêt. Tóm lại sử gọi chàng là vị anh hùng của Châu Á, con phượng hoàng ở phương Đông.
Quả vậy, hoàng tử ấy vừa tròn mười tám tuổi thì có thể nói là một chàng trai tuyệt thế vô song. Chàng là linh hồn các hội đồng bàn việc cơ mật của triều đình-danh hiệu nhà vua thời ấy là Timuatat. Mỗi khi chàng bày tỏ ý kiến, thì các đại thần giàu kinh nghiệm nhất cũng chỉ có thể tán thành. Ai cũng ngợi ca sự thận trọng và trí khôn ngoan của chàng. Ngoài ra, mỗi khi đất nước có chiến tranh, người ta luôn thấy hoàng tử dẫn đầu đoàn quân tiến lên phía đón đánh kẻ thù, chiến đấu và chiến thắng. Chàng đã đánh thắng nhiều trận lớn, những chiến tích đạt được dưới sự chỉ huy của chàng làm cho người bộ tộc Nogai trở thành những người nổi tiếng ai ai cũng kính nể, đến nỗi các nước lân bang không nước nào dám gây nên bất cứ chuyện gì làm người Nogai phật ý.
Tình hình đất nước và cuộc sống bộ tộc dưới sự cai trị của vị Hãn thân sinh chàng Calap đang thanh bình tốt đẹp mọi bề, chợt một hôm có sứ thần nhà vua nước Carim đến xin triều yết. Sứ thần thông báo với Hãn Timuatat rằng quốc vương Carim đòi từ nay trở về sau người Nogai ở Tartari hằng năm phải cống nạp cho họ. Nếu người Nogai không chấp nhận, nhà vua nước ấy sẽ thân chinh dẫn đầu một đạo quân hai mươi vạn người kéo đến phế truất vị Hãn khỏi ngai vàng, lấy đầu nhà vua cùng với cả gia đình, để trừng phạt tội không chịu nhanh chóng và vui lòng thần phục nước Carim. Được tin, Hãn Timuatat khẩn cấp triệu tập hội đồng cơ mật. Mọi người cùng bàn bạc xem, nên chăng cống nạp hàng năm hay là chống đối lại một kẻ thù hùng mạnh. Hoàng tử Calap cũng như phần lớn các triều thần trong hội đồng đều qủa quyết người Nogai nên coi khinh mọi sự đe doạ của nước ngoài. Thế là sứ giả Carim bị đuổi về với lời từ chối.
Ngay sau quyết định ấy, người Nogai phái đại diện đến các bộ tộc lân bang nói cho họ rõ tình hình, và khuyên họ nên linh minh với Hãn Timuatat xứ Tartari, cùng nhau chống lại quân đội xâm lược của nhà vua nước Carim. Ông này là người có tham vọng quá đáng. Chắc chắn nếu Hãn người Nogai chịu khuất phục thì đến lượt các bộ tộc khác sẽ bị người Carim cử sứ thần đến doạ nạt và sách nhiễu đủ điều. Các sứ giả được nhà vua cử đi làm thuyết khách đều thành công. Các tộc lân bang trong đó có nước Xiêcca hùng mạnh, hứa hẹn sẽ liên minh với Hãn Timuatat, và người Xiêcca nhận sẽ chi viện cho Hãn năm vạn quân binh. Được những lời hứa hẹn ấy, vị Hãn thủ lĩnh người Nogai động viên thêm nhiều quân dự bị khác của mình, ngoài đạo binh thường trực chiến đấu. Trong khi người Nogai còn lo chuẩn bị nghênh chiến thì vua nước Carim về phần mình nhanh chóng tập hợp đủ hai trăm ngàn chiến binh. Đạo binh lớn ấy vượt qua sông Giaxat gần thành phố Côgien, rồi mượn đường băng qua các nước Ilat và Saganac, ở đấy họ thu thập thêm và tích trữ rất nhiều quân lương. Từ Côgien, quân Carim tiến đến một cách đồng bằng thường gọi là đồng Giun. Trong thời gian này, quân của Hãn thủ lĩnh người Nogai đặt dưới quyền chỉ huy của hoàng tử Calap vẫn án binh bất động, vì còn chờ người Xiêcca và quân các bộ tộc liên minh kịp kéo tới hội quân. Viện binh vừa tới, hoàng tử ngay lập tức ra lệnh xuất quân, trực chỉ về cách đồng Giun. Quân của chàng vừa mới vượt qua sông Gienghi, thì những lính được phái đi thám thính quay trở về báo đội quân thù địch đã xuất hiện đằng trước và đang dàn quân tiến tới. Ngay lập tức chàng hoàng tử trẻ cho dừng quân, bố trí trận tuyến sẵn sàng chiến đấu.
26/8/2013, 20:59
#34Tiểu Tuệ
Tham gia : 30/06/2013
Bài viết : 1778
Điểm plus : 100000002
Được thích : 375
Re: [Truyện cổ Ba Tư] Nghìn lẻ một ngày - François Pétis De La Croix
Tiểu Tuệ- ............~♥:
- Chương 8 (B)
NGÀY 46, 47, 48
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI SÁU.
Hai đạo quân lớn gần như ngang sức ngang tài. Chiến binh của hai bên đều là những người thiện chiến chẳng ai kém ai. Cuộc chiến diễn ra cực kỳ khốc liệt và đẫm máu. Trận đánh bắt đầu từ sáng sớm, kéo dài đến tận đêm. Tướng lĩnh và binh sĩ cả hai bên đều tỏ ra dũng cảm và đã qua luyện tập tinh tường. Nhà vua nước Carim thân chinh cầm quân là một tướng quân từng nhiều lần vào sinh ra tử, còn hoàng tử Calap cho dù trẻ tuổi cũng tỏ ra xứng đáng một vị tướng tài. Khi người Nogai Tartari có vẻ chiếm phần ưu thế, khi thì họ buộc phải lùi bước trước sức tấn công quyết liệt của người Carim. Hai đạo quân, khi thì bên này lấn bước, khi thì bên kia tiến sang, trận tuyến bất phân thắng bại, đành cùng nhau ra lệnh lui quân khi trời vừa sập tối. Hai bên quyết định sẽ lại đánh tiếp vào sáng ngày hôm sau.
Nhưng ngay trong đêm hôm ấy, viên tướng chỉ huy người Xiêcca bí mật sang doanh trại đối phương, xin gặp nhà vua xứ Carim. Viên tướng ấy hứa sẽ lui quân bỏ mặc quân đội người Nogai, với điều kiện nhà vua xứ Carim cùng mình ký hiệp ước hoà bình, và vua Carim đồng ý long trọng thề trước Thượng đế sẽ thi hành đầy đủ hiệp ước ấy; sau này bất kỳ vì lý do nào người Carim cũng sẽ chẳng bao giờ đòi người Xiêcca phải cống nạp. Nhà vua nước Carim chấp thuận. Hiệp ước được ký kết luôn. Viên tướng người Xiêcca trở lại ngay bản doanh của mình trong đêm.
Thế là ngày hôm sau, khi bắt đầu dàn quân thành thế trận đánh nhau thì đột nhiên người ta thấy quân đội của người Xiêcca tách ra khỏi đạo quân liên minh, quay gót lên đường trở về xứ sở. Sự phản trắc ấy làm hoàng tử Calap vô cùng buồn bã. Thấy quân mình lúc này bị đặt vào thế yếu hơn nhiều so với quân đối phương, hoàng tử những muốn tránh không lâm trận nhưng lúc này chẳng còn cách nào khác. Quân Carim đột ngột mở trận tấn công dữ dội. Lợi dụng ưu thế về quân số và địa hình, họ dàn ra bốn phía bao vây quân Nogai vào giữa. Các chiến binh Nogai, mặc dù quân liên minh với mình rời bỏ, bị quân thù bao vây mọi phía vẫn không chút hoang mang. Noi gương vị tướng chỉ huy là chàng hoàng tử của mình, họ siết chặt hàng ngũ, ra sức chống đỡ rất lâu các cuộc tấn công hung dữ của người Carim. Cuối cùng quân Nogai vẫn bị quân Carim dựa vào ưu thế binh lực đánh tơi bời. Trận tuyến tan vỡ.
Đến lúc này hoàng tử Calap biết không thể nào giành chiến thắng được nữa, đành tính chuyện chạy khỏi bàn tay quân thù. Chàng chọn một số đơn vị thiện chiến nhất, dẫn đầu các đơn vị ấy mở một con đường máu xuyên đạo quân Carim dày đặc, thoát được ra ngoài vòng vây. Nhà vua thống lãnh đạo quân Carim hay tin vội phái ngay sáu nghìn người ngựa cấp tốc đuổi theo. Nhưng hoàng tử Calap cùng toán quân phù trợ đã kịp đi theo những con đường tắt quân thù không thể biết, mấy ngày sau về đến được triều đình người bộ tộc Nogai.
Tin hoàng tử thua trận trở về gây nên một nỗi buồn lo và hoảng sợ khắp kinh thành, bởi mọi người biết tai hoạ sắp ập tới nơi. Hãn Timuatat hết sức buồn bã. Ông còn bàng hoàng hơn nữa, khi một sĩ quan trốn thoát được ngay sau đấy, chạy về phi báo cho vua, quân nước Carim đã hành quyết gần như tất cả những người Nogai bị họ bắt sống. Hiện vua Carim đang xua quan tiến nhanh về kinh đô, quyết tâm bắt và giết chết vị Hãn cùng toàn bộ gia đình đang trị vì ở đây, rồi bắt toàn thể bộ tộc Nogai phải thần phục. Đến lúc này vua hối tiếc sao mình đã khước từ không chịu cống nạp luôn cho người Carim cho yên chuyện. Nhưng như một phương ngôn A rập đã nói: Hối tiếc sau khi thành phố Basra đã trở thành đổ nát điêu tàn rồi, phỏng còn có ích gì.
Thời gian rất bức bách. Cần phải mau mau chạy trốn. Nếu không cả gia đình hoàng tộc sẽ sa vào tay nhà vua nước Carim. Hãn Timuatat, hoàng hậu Enma và hoàng tử Calap vội vàng chọn lấy một ít của cải quý báu nhất trong kho tàng, chạy ra khỏi kinh thành Astracan. Cùng theo vua có khá đông quân sĩ và người hầu trong cung, họ không muốn bỏ gia đình đức vua của mình trong cơn hoạn nạn, cùng số đơn vị đã từng theo chàng hoàng tử trẻ mở con đường máu xuyên qua quân thù chạy về được tới kinh thành.
Mọi người vội vã lên đường đi về vùng đồng bằng Bungari rộng lớn, hy vọng có thể xin lưu trú tại triều đình một nhà vua nào đó trên vùng đất rộng rãi phì nhiêu này. Họ đã đi được nhiều ngày đường, đã vượt qua dãy núi Capca thì chợt một hôm gặp một đội cướp. Bọn này đông tới bốn nghìn tên từ trước tới nay vẫn hoành hành ven dãy núi Capca. Quân cướp xông vào tấn công. Mặc dù trong tay hoàng tử Calap lúc này chỉ còn chưa đến bốn trăm quân, chàng vẫn cùng họ chiến đấu hết sức dũng cảm, hạ sát được không ít tên cướp. Nhưng cuối cùng tất cả quân sĩ cũng như những người hầu chạy theo nhà vua đều bị chúng tàn sát. Bọn cướp chiếm đoạt hết tất cả của cải, lại còn dã man giết chết luôn những người bị thương còn sống sót sau trận chiến đẫm máu. Chúng chỉ để cho vua Timuatat, hoàng hậu Enma và hoàng tử Calap được sống, nhưng lột gần như hết áo quần họ mặc trên người. Ba người bị bỏ lại giữa miền núi non hoang vu hiểm trở gần như không đủ manh áo che thân.
Làm sao diễn tả hết nỗi đau của vua Timuatat khi thấy mình lâm vào cảnh khốn cùng. Vua tiếc sao mình không được chết như những người vừa xả thân và ngả xuống trước mắt mình kia. Quá tuyệt vọng, vua chẳng thiết sống nữa, mà muốn tự mình tìm cái chết. Trong khi đó hoàng hậu khóc như mưa và không ngớt lời than vãn. Chỉ có hoàng tử Calap là duy nhất còn đứng vững trước số phận quá đắng cay. Thấm nhuần những lời dạy của Thánh kinh Coran, thuộc lòng các vần thơ của đức Môhamêt về số phận tiền định, chàng trai vẫn giữ được tinh thần cứng cỏi. Nỗi đau lớn nhất của chàng lúc này là thấy cha mẹ đang hết sức đau khổ. Chàng lựa lời khuyên giải:
- Thưa phụ vương, thưa mẫu hậu, chúng ta chớ nên gục ngã trước những điều bất hạnh. Xin hãy nghĩ, chính trời bắt ta lâm vào thảm cảnh này. Ta cần tuân phục ý trời không được kêu ca. Chúng ta đâu phải những bậc quân vương đầu tiên bị sa cơ thất thế? Trong lịch sử từng có biết bao nhiêu vua chúa bị quân thù đánh đuổi khỏi xứ sở. Biết bao nhiêu vị sau một cuộc sống lang thang, có khi sống như những con người cùng khổ trên các xứ sở xa lạ, lại trở về khôi phục ngai vàng? Nếu Thượng đế đã có ý muốn phế truất họ khỏi ngôi vua, thì Thượng đế có thể trả lại ngai vàng cho họ. Chúng ta hãy cùng nhau hy vọng, rồi sẽ đến lúc trời đoái thương tình cảnh của chúng ta, trời sẽ giúp chúng ta vượt qua những ngày khốn khổ để đến ngày hạnh phúc, đúng như người xưa vẫn nói: khổ tận cam lai.
Hoàng tử còn nói thêm nhiều điều khác an ủi mẹ cha. Nhà vua và hoàng hậu lắng nghe, cũng cảm thấy được khuây nguôi phần nào. Cuối cùng vua Timuatat nói:
- Con ơi, sự tình đã đến nước này, chúng ta đành tuân phục số mệnh vậy. Nếu mọi điều hoạ, phúc đã được định trước trên thiên tào, chúng ta hãy cùng nhau cắn răng chịu đựng cái hoạ này, chẳng nên phàn nàn.
Nhà vua, hoàng hậu và chàng trai cảm thấy có thể lấy lại sức lực phần nào sau những lời an ủi, khích lệ lẫn nhau, tiếp tục bước đi trên đường. Ba người đi bộ, bởi bọn cướp đã đoạt hết ngựa rồi. Họ đi rất nhiều ngày, chỉ sống bằng nước suối và quả dại hái hai bên đường. Nhưng rồi họ tới một vùng sa mạc. Ở đây đất đai cằn cỗi, không kiếm được bất kỳ thức gì có thể nuôi sống con người. Cả ba đều cảm thấy không còn chút hơi sức nào. Nhà vua vốn đã cao tuổi, bắt đầu thấy kiệt sức trước tiên. Ông bước đi không vững. Hoàng tử Calap mặc dù chính mình cũng hết sức mệt mỏi, phải cõng lên vai khi thì cha khi thì mẹ. Cuối cùng ba người vừa đói vừa khát vừa mệt đến hụt hơi, tới một vùng núi có những vực sâu khủng khiếp. Đây là một dãy núi đá tai mèo, đỉnh cao chen lẫn vực sâu, đường qua đây hết sức nguy hiểm. Nhưng chẳng còn nhìn thấy lối nào khác khả dĩ theo đó để băng qua dãy núi hiểm trở và xuống được cánh đồng rộng nhìn thấy xa xa. Hai bên dã núi tai mèo ấy lại toàn rừng rậm cây cối tum tùm, ken dày những bụi gai nhọn sắc không thể nào chui qua. Nhìn thấy vực sâu, hoàng hậu khiếp đảm thét lên một tiếng. Nhà vua cũng mất luôn kiên nhẫn. Vua nói với con trai:
- Đến nước này là thôi, ta chịu đầu hàng số phận không may. Ta mệt mỏi quá rồi. Ta sẽ đâm đầu xuống vực thẳm kia. Chắc là trời dành cái vực ấy cho ta làm mồ. Ta muốn thoát ngay khỏi cảnh khốn cùng. Ta muốn thà chết đi còn hơn sống vất vả thế này.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI BẢY.
Nhà vua trong cơn bực bội, sắp sửa lao mình xuống vực sâu. Hoàng tử Calap vội đưa hai tay ôm giữ vua cha:
- Ôi! Hỡi phụ vương, ngài làm gì vậy. Sao ngài lại có ý định tuyệt vọng như thế. Phải chăng cha định bằng cách ấy biểu hiện sự khuất phục trước ý định của trời đất? Xin hãy tỉnh trí lại, phụ vương ôi! Xin cha đừng mất hết kiên nhẫn, đừng cưỡng lại ý trời. Chúng ta phải kiên tâm chịu cơn hoạn nạn, chờ đến lúc trời đoái thương. Vượt qua dãy núi tai mèo này quả là rất nguy hiểm. Nhưng biết đâu có một con đường nào khác có thể cho phép chúng ta xuống được cánh đồng bằng. Xin cha mẹ cho phép con đi tìm đường. Xin cha hãy tạm nguôi cơn bực bội, cha hãy ở lại đây trông nom mẹ con. Con sẽ quay trở lại ngay tức khắc.
- Vậy thì con hãy đi đi, nhà vua đáp- Cha mẹ chờ con trở lại. Con chớ ngại rằng cha tuyệt vọng, cha sẽ gắng sống cho đến lúc con trở về.
Chàng hoàng tử trẻ sục sạo khắp nơi mọi chốn hồi lâu trên dãy núi tai mèo mà không nhìn thấy một con đường nào. Hết sức buồn rầu, chàng quỳ xuống đất khẩn cầu trời đất hãy cứu giúp gia đình mình. Sau đấy, chàng đứng lên cố gắng tìm tòi lần nữa, cuối cùng nhận ra một con đường mòn. Hoàng tử tạ ơn trời đất về sự may mắn này. Rồi men theo con đường mòn ấy, chàng đến một cây cổ thụ, từ đây mở ra lối xuống đồng bằng. Dưới bóng mát cây cổ thụ, có một ngọn suối nước trong leo lẻo. Chung quanh còn có rất nhiều cây có quả, cành lủng lẳng trĩu nhiều quả rất to. Bàng hoàng trước sự phát hiện, hoàng tử hớn hở quay trở lại báo tin cho nhà vua và hoàng hậu biết. Hai người mừng rỡ và càng vui sướng thêm khi nghĩ chắc trời chỉ cho họ con đường thoát khỏi cơn khốn cùng đây. Hoàng tử Calap mời nhà vua và hoàng hậu đến bên con suối. Ba người rửa mặt mũi tay chân, uống cho đã cơn khát khô họng đang dày vò. Tiếp đó nhà vua và hoàng hậu ăn những trái cây hoàng tử hái. Trong cơn đói, ai cũng thấy rằng những trái cây này tuyệt diệu hơn mọi thứ cao lương mỹ vị. Lúc này hoàng tử Calap mới thưa với cha:
- Giờ đây hẳn phụ vương thấy van nài là không đúng. Chắc hồi nãy cha ngỡ trời đất bỏ mặc chúng ta. Con đã thành tâm khẩn cầu sự cứu giúp, và quả là tròi đang cứu ta. Con tin khi những người bất hạnh có tấm lòng thành thì trời ắt nghe tiếng van xin của họ.
Ba người lưu lại dưới gốc cây, bên suối nước vài ba ngày để nghỉ ngơi và lấy lại sức. Sau đó họ hái mang theo một ít trái cây và đi về phía đồng bằng, hy vọng con đường mòn sẽ dẫn tới một nơi nào có người ở. Họ không nhầm. Chẳng bao lâu trước mắt hiện ra một thành phố thoạt trông có vẻ lớn san sát nhiều nhà cửa đẹp. Họ đi đến đấy. Vừa tới cổng thành ba người dừng lại chờ trời tối. Họ không muốn vào thành phố giữa ban ngày, ai nấy bụi bặm phủ từ đầu tới chân và mồ hôi ròng ròng, trên người lại gần như không có áo quần. Ba người ngồi nghỉ dưới một cây to có nhiều bóng mát, rồi ngả lưng ra đám cỏ dưới gốc cây. Được ít lâu, chợt thấy một cụ già từ thành phố đi ra, đến gốc cây ấy hóng mát. Cụ già chào họ rất lịch sự ngồi xuống bên cạnh. Ba người vội đứng dậy đáp lễ và cất lời hỏi thành phố này là đâu. Cụ già đáp:
- Thành phố này tên là Giaich. Đây là thủ phủ của vùng đất, nơi sông Giaich bắt nguồn. Đức Hãn Ilen hiện đóng đô nơi đây. Các vị hẳn là người từ nước ngoài mới đến, cho nên mới hỏi như vậy.
- Vâng,- nhà vua đáp- chúng tôi đến đây từ một đất nước rất xa. Sinh quán chúng tôi là vương quốc Carim. Chúng tôi sống bên bờ biển Caspi. Chúng tôi làm nghề buôn bán. Vừa qua, ba người chúng tôi cùng nhiều thương gia khác đang đi trong vùng Capca thì chẳng may gặp một bọn cướp rất đông. Chúng tấn công đoàn lữ hành của chúng tôi và cướp bóc hết của cải. May chúng để cho ba chúng tôi sống sót nhưng trong tình trạng như cụ đang nhìn thấy đây. Chúng tôi đã vượt qua dãy núi Capca, rồi dần lê bước đến tận đây, nên chẳng biết mình đang ở chốn nào.
Cụ già vốn là người có tính thương người. Cám cảnh nỗi bất hạnh của đồng loại, cụ nói cụ rất xúc động họ vừa gặp chuyện không may, và ngỏ lời mời ba người về nghỉ tạm tại nhà mình. Cụ già nói năng rất lịch sự. Trông thấy họ có vẻ ngại ngần, cụ cứ khẩn khoản nhắc lại lời mời. Nhà vua nhận lời. Vậy là chờ đến đêm, ba người theo cụ già đi vào thành phố.
Nơi cụ già ở là một ngôi nhà nhỏ, đồ đạc giản dị nhưng đâu đâu cũng sạch sẽ gọn gàng, trông cơ ngơi thoát ra vẻ thanh lịch hơn là bần hàn.
Vừa vào đến nhà, cụ già thầm truyền bảo điều gì đấy cho một người giúp việc. Lát sau người ấy quay trở lại, theo sau có hai chú trai mang hai gói hàng lớn. Mở ra, một túi đựng nhiều quần áo đàn ông, đàn bà đã may sẵn. Túi kia đựng đầy các loại mạng che mặt, khăn đội đầu và vải thắt lưng. Hoàng tử Calap và nhà vua chọn cho mình mỗi người một chiếc áo khoác dài lót cùng một chiếc áo ngắn bằng gấm và một khăn đội đầu đẹp may bằng vải Ấn Độ, còn hoàng hậu thì chọn một bộ xiêm y đầy đủ. Cụ già trả tiền mua hàng, và cho hai chú trai ra về. Sau đấy gọi gia nhân dọn bữa. Hai người giúp việc đẩy ra một cái chạn trong chạn xếp nhiều chén bát bằng sứ, đĩa bằng gỗ trầm hương và gỗ lô hội, cùng nhiều ly rượu nhỏ làm từ san hô. Nhà vua, hoàng hậu, hoàng tử Calap cùng cụ già ngồi vào bàn dùng bữa. Thoạt tiên, dọn ra món súp suava, ăn kèm với hai đĩa trứng cá tầm. Tiếp đấy là thịt con linh dương xay nhỏ, một đĩa cơm lớn thập cẩm trộn nhiều loại thịt khác nhau thái nhỏ đầy có ngọn. Bốn người lại dùng tiếp món cá gibêra, một loài cá ngon sông Vônga. Họ uống ba chai lớn nước Camê, cùng mấy ly rượu cất từ quả chà là.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI TÁM.
Cụ già sau vài chén rượu, dường như tỏ ra cởi mở hơn. Cụ cố gắng chuyện trò thoải mái cho các vị khách vui lên chút ít. Nhận thấy dù làm gì, ba người khách vẫn âu sầu, cụ liền nói với họ:
- Tôi thấy, tôi cố làm các vị đỡ buồn sau tai hoạ vừa xảy ra với các vị mà không đạt kết quả. Dường như các vị vẫn chưa khuây nguôi về nỗi bất hạnh của mình. Tôi xin phép được thưa, xin ba vị chớ nên buồn bã làm chi, hãy quên tất cả mọi việc đi. Các vị cứ nghĩ mất của còn người, thế là quý lắm rồi. Chuyện đã xảy ra với các vị đâu có mới lạ gì. Có ngày nào những người du hành và các thương gia không phải chịu nạn cướp bóc. Bản thân tôi thời còn trai trẻ, trên đường từ thành phố Muxen về Batđa, tôi từng bị bọn cướp đoạt mất vô vàn tài sản, suýt nữa tôi cũng bỏ mạng luôn. Tôi từng lâm vào tình cảnh chẳng khác các vị hôm nay, và rồi tôi cũng tìm cách khuây nguôi mà sống. Quả thật vô cùng khó coi một người có địa vị như tôi mà đến nỗi lâm vào cảnh ngửa bàn tay ăn mày để kiếm sống. Tôi cần phải kể cho các vị nghe câu chuyện của tôi. Tôi muốn dốc bầu tâm sự cùng các vị, may ra sẽ có ích phần nào cho các vị chăng. Nghe câu chuyện bất hạnh của đời tôi, may ra các vị cảm thấy phần nào đỡ trĩu nặng bất hạnh của các vị.
Nói xong cụ già tốt bụng ấy truyền bảo những người giúp việc lui ra, rồi bắt đầu kể chuyện như sau.
26/8/2013, 21:02
#35Tiểu Tuệ
Tham gia : 30/06/2013
Bài viết : 1778
Điểm plus : 100000002
Được thích : 375
Re: [Truyện cổ Ba Tư] Nghìn lẻ một ngày - François Pétis De La Croix
Tiểu Tuệ- ............~♥:
- Chương 9 (A)
CHUYỆN HOÀNG TỬ FALALA, CON TRAI QUỐC VƯƠNG BEN-ORTOC, XỨ MUXEN
Tôi là con trai của nhà vua xứ Muxen, đức Ben-Ortoc vĩ đại. Tôi vừa tròn hai mươi tuổi, phụ vươnng tôi đã muốn cưới vợ cho tôi. Người sai dẫn đến cho tôi xem mặt nhiều cung nữ trẻ, trong số ấy có lắm cô khá đẹp. Tôi dửng dưng nhìn tất cả một lọat, chẳng thấy cô nào gây ấn tượng gì. Các cô cũng nhận ra điều đó. Mọi người đều đỏ mặt và cùng ra về. Ai nấy đều không vui vì chẳng một ai trong bọn họ chinh phục được trái tim hòang tử.
Phụ thân tôi cũng khá ngạc nhiên sao con trai mình dửng dưng trước gái đẹp như vậy. Trước đây người không hề hình dung điều đó. Ngược lại cha tôi vẫn tưởng, một khi trông thấy bấy nhiêu thiếu nữ xinh đẹp mỗi người một vẻ, chắc hẳn tôi sẽ gặp khó khăn trong sự lựa chọn. Tôi tâu với phụ vương, tôi chưa muốn lấy vợ. Nguyện nhân có lẽ tại tôi đang cực kỳ mơ ước được đi du ngọan đó đây. Tôi xin phép người cho tôi được một mình sang thành phố Batđa chơi, chắc sau chuyến đi ấy trở về, tôi sẽ đi đến quyết định lập gia thấy. Cha tôi không muốn trái con trai. Người cho phép tôi làm một chuyến du hành về thành phố vĩ đại ấy. Và để cho tôi có điều kiện đến thành phố ấy với tư cách một hòang tử con vua, phụ vương tôi truyền lệnh chuẩn bị cho một đòan tùy tùng thật sang trọng. Người sai mở kho tang lấy tiền vàng ra chất đầy lưng bốn con lạc đà. Người lại cắt cử nhiều gia nhân vốn quen hầu hạ trong cung đi theo phục dịch tôi, đồng thời cử một trăm binh sĩ lấy từ đội cấm vệ của người cho tháp tùng để bảo vệ tôi.
Vật là với đám tùy tùng đông đảo ấy tôi rời thành phố Muxen, lên đường đi về thành phố Batđa. Những ngày đầu dọc đường bình yên vô sự, chẳng có việc gì xảy ra. Nhưng một đêm, trong khi chúng tôi hạ trại nghĩ giữa một đồng cỏ, đột nhiên bị một tóan người Bêđuin rất đông đão xông vào tấn công. Phần lớn những người tùy tùng của tôi bị chúng giết hại ngay giờ phút đầu. Khi nhận ra mình đang lâm vào một thế hiểm nghèo ghê gớm, tôi vội tập hợp những binh sĩ cha tối đã phái theo để bảo vệ, dũng cảm đánh trả bọn cướp Bêđuin. Chúng tôi đánh hung dữ dội đến nỗi hơn ba trăm tên cướp ngã gục trước đường gươm mũi giáo của chúng tôi. Nhưng đến sáng, cậy vào thế đông, bọn cướp đông đảo vẫn bao vây được chúng tôi. Bực bội vào xấu hổ trướv sự đề kháng của một nhóm nhỏ người, chúng liền dốc tòan lực đánh mạnh hơn nữa. Cho dù chúng tôi cố gắng chống trả, cuối cùng vẫn bị chúng đánh bại. Chúng thu hết vũ khí và lột áo quần chúng tôi đang mặc trên người. Thông thường bọn giặc bắt sống nhưng người bị chúng chặn đường cướp của mang đi bán làm nô lệ, hoặc là để mặc tại chỗ cho chết đói chết khát bên đường. lần này chúng muốn trả thù cho đồng đội bị bỏ mạng, chúng đang tâm giết chết tất cả những người giờ đây không còn khả năng bảo vệ. Tất cả đòan tùy tùng của chúng tôi đều bỏ mạng trước lưởi gươm tàn bạo của bọn cướp. Tôi sắp chịu chung số phận với mọi người thì chợt nảy ra nên tự xưng mình là ai, tôi liền bảo chúng:
_ Hãy dừng tay lại, hỡi những người bạo gan kia. Các ngươi phải biết tôn trọng dòng máu quân vương chứ. Ta chính là hòang tử Falala, con trai duy nhất của đức Ben-Ortoc, quốc vương xứ Muxem. Ta là người thừa kế ngai vàng xứ ấy.
Tên Bêđuin thủ lĩng bọn cướp đáp:
_ Ta thật hài lòng nghe anh nói rõ anh là ai. Bởi ta có mối thù không đội trời chùng với cha anh từ lâu. Cha anh đã cho treo cổ không ít bạn bè ta chẳng may sa cơ bị bắt. Giờ đây ta cũng sẽ đối xứ với anh theo cách cha anh đã đối xử với đồng bọn ta.
Nói xong, nó sai trói gô tôi lại. Bọn cướp đọat nốt đòan ngựa và lạc đà của chúng tôi, rồi dẫn tôi đi bộ đến chân một quả núi nằm giửa hai cánh rừng, ỏ đấy có vô số lều trại nhỏ dựng lên, tất cả một màu xám xịt. Đấy là hang ổ bọn cướp. Chúng dẫn tôi đến lều của tên đầu lĩnh. Cái lều này rộng lớn hôn tất cả các lều khác và nằm chính giữa. Chúng giam tôi suốt một ngày ở đó, sau đó lôi ra trói vào một gốc cây. Chúng định để tôi đấy cho chết dần, trong thời gian chúng mãi đi làm ăn những chuyến khác. Nhiều tên cướp trước khi bỏ đi còn vây quanh tôi, chửi bới, chế giễu; tóm lại chúng tùm đủ mọi cách làm nhục tôi.
26/8/2013, 21:05
#36Tiểu Tuệ
Tham gia : 30/06/2013
Bài viết : 1778
Điểm plus : 100000002
Được thích : 375
Re: [Truyện cổ Ba Tư] Nghìn lẻ một ngày - François Pétis De La Croix
Sponsored content- ............~♥:
- Chương 9 (B)
NGÀY 49; 50, 51, 52, 53
Ngày thứ bốn mươi chín.
Tôi bị trói vào gốc cây ấy đã lâu lắm rồi, vừa đói vừa khát chắc chẳng bao lâu nữa sẽ trút hơi thở cuối cùng, thì một tên cướp đi thám thính trở về báo với tên đầu lĩnh Bêđuin biết có thể sắp có một chuyến làm ăn to: Cách đây chừng bảy dặm có một đòan lữ hành lớn tối mai sẽ hạ trại tại một nơi nào đó. Viên đầu lĩnh bọn cướp lập tức ra lệnh chuẩn bị khởi hành. Tất cả bọn lên ngựa, để tôi lại một mình trong hang ổ của chúng. Chúng chắc mẫm khi quay trở lại thì tôi đã chết ngỏm từ đời nào rồi. Tuy nhiên, dường như mệnh trời chưa muốn bắt tôi phải chêt. Vợ tên đầu llĩnh đem lòng thương hại tình cảnh của tôi. Ngay tối hôm bọn cướp lên đường, người đàn bà ấy đến bên gốc cây và nói với tôi:
_Chàng trai kia, ta thương hại nỗi bất hạnh của anh. Ta muốn cướp giúp anh. Nhưng nếu ta cởi trói và cho anh được phép tự do, liệu anh còn có sức để trốn chạy?
_ Tôi có đủ sức – tôi đáp- Thượng đế đã xui khiến bà thương hại đến tôi, thì thượng đế sẽ cho tôi đủ sức để chạy trốn.
Người vợ tên đầu lĩnh cởi trói, còn ném cho tôi một chiếc áo dài cũ của chồng với hai ba chiếc bánh mì, rồi trỏ cho tôi thấy một con đường: “Hãy cứ theo lối kia mà đi, cứ đi theo con đường ấy, chớ rẽ đi đâu khác, anh sẽ đến được một nơi có người ở.”
Tôi cảm ơn người phụ nữ đã cứu sống, rồi suốt đêm hôm ấy cứ lần theo mỗi con đường ấy mà đi, không đi ngang rẽ tắt sang bất kì một lối nào khác.
Sáng hôm sau tôi gặp một người đi bộ đang dắt hai con ngựa chở hai kiện hàng lớn trên lưng. Tôi đến gấn, xưng mình là một người nước ngòai không may đi lạc vì chưa quen đường đất xứ này, rồi hỏi ông đang đi về đầu. Người ấy đáp:
_ Tôi mang hàng hóa về thành phố Batđa bán. Nội trong hai ngày nữa tôi sẽ đến thành phố ấy.
Tôi liền đi theo ông ta, cho mãi khi vào đến bên trong thành phố, mới từ giã. Người đàn ông ấy đi lo công việc của mình, còn tôi, tôi vào một thánh đường, nghĩ ở đấy hai ngày hai đêm cho lại sức. tôi cũng không muốn ra khỏi thánh đường, sợ nhỡ gặp người thành phố Muxen họ sẽ nhận ra tôi chăng. Tôi xấu hổ thấy mình lâm vào tình cảnh này. Đã không tính chuyện nói cho mọi người rõ mình là ai, tôi còn muốn giấu diếm gốc tích. Tuy nhiên, đói thì đầu gối phải bò. Tôi không thể không lần ra khỏi nơi ẩn náu. Tôi quyết định đành phải đi xin ăn như một kẻ khốn cùng, torng khi chờ đợi nghĩ ra kế nào hay hơn.
Tôi đến bên cửa sổ tầng trệt một ngôi nhà to và lớn tiếng ngỏ lời xin được bố thí. Một bà giúp việc già mở cửa sổ, tay bà cầm một cái bánh định đưa cho người hành khất. khi tôi bước tới để đón chiếc bánh, tình cờ một ngọn gió nâng cái rèm che cửa sổ. Nhìn vào phòng, tôi thấy một thiếu nữ xinh tươi lạ lùng. Sắc đẹp lộng lẫy của nàng chói vào mắt tôi giống như một tia chớp, làm tôi gần như chóang váng. Tôi đón chiếc bánh mà chẳng rõ mình đang làm gì. Tôi đứng như phỗng trước mặt bà già giúp việc, quên cả nói lời cảm ơn. Tôi tỏ ra vừa ngạc nhêin vừa bối rối vừa bang hòang, đến nỗi bà tưỡng tôi là một con người ngớ ngẩn. Bà quay và nhà, để tôi một mình trên đường phố, cứ đứng đấy mà nhìn vào cửa sổ một cách vô vọng, bởi chờ mãi không có ngọn gió nâng bức rèm lên nữa.
Tôi cứ đứng đấy suốt ngày hôm ấy, chờ may ra còn đó một ngọn gió nữa thuận lợi cho mình chăng. Đến khi trơi sắp tối, đành tính chuyện ra về. Trước khi rời xangôi nhà ấy, gặp một cụ già tình cờ đi ngang qua, tôi hỏi ngôi nhà này của ai vậy. Cụ già đáp: đây là dinh cơ ngài Muaphac, con ytai ngài Atban. Đất là một vị quan to cao qu, vừa giàu vừa sang. Ngài vừa đựoc cử làm thống đốc thành phố này chưa bao lâu, thế mà không hiểu sao đã phát sinh bất hòa với quan chánh án. Ông nay đã tìm cách gièm pha với hòang đế, hy vọng ngài sẽ truất chức thống đốc của ông Muaphac, thế mà rốt cuộc ông chánh án thành công trong mưu đồ của ông ấy.
Sau chuyện tình cờ trông thấy vừa rồi, người tôi đâm mê mẩn. Tôi ra khỏi thành phố lúc nào không để . Đêm đến, đành vào một nghãi trang lớn, định ngủ tạm qua đêm trong ấy. Tôi nuốt miếng bánh chẳng mấy ngon lành cho dù lúc này bụng đang đói như cào. Ăn xong, tôi nằm xuống cạnh một ngôi mộ, đầu gối lên mấy viên gạch. Định ngủ song chẳng thể nào ngủ yên. Hình ảnh cô tiểu thư con ngài Muzaphac làm tim tôi rung động. Hình ảnh khả ái của nàng kích thích trí tưởng tượng, mặt khác bữa ăn vừa rồi quá ư đạm ạc, cũng khó làm cho giấc ngủ đến nhanh. Tuy nhiên trăn trở mãi rồi cũng thiếp đi. Chưa được bao lâu chợt có tiếng động mạnh cùng tiếng ồn ào bên trong ngôi một làm tôi giật mình thức giấc.
Ngày thứ năm mươi.
Khiếp đảm vì tiếng động không rõ nguyên nhân, tôi vội ngỏm dậy định chạy khỏi nghĩa trang. Hai người đang đứng ở lối vào ngôi mộ, nhìn thấy tôi từ trong đi ra chặn lại hỏi tôi là ai, đang làm gì trong nghĩa trang này. Tôi đáp:
_ Tôi là một người nuớc ngòai bất hạnh, vì gặp cảnh không may, đi đến chỗ phải ăn xin để kiếm sống. Tôi đến đây định ngủ nhớ qua đêm, bởi không có một nơi nghỉ nào khác trong thành phố.
Một người liền nói:
_ Anh là một kẻ ăn mày? Vậy hãy tạ ơn trời đất đã cho anh gặp chúng ta. Bọn ta sẽ cho anh chén một bữa linh đình.
Vừa nói hai người ấy vừa kéo tôi vào tuột trong ngôi mộ. Ở đấy đã có bốn người khác đang quây quần quanh một phiến đá dài dung làm bàn, ngồi ăn củ cải đường cùng quả chà là, và thi nhau nốc nhiều bình rượu lớn. Họ bảo tôi ngồi xuống bên cạnh. Tôi buộc phải ăn phải uống vì sợ họ. Thọat tiên tôi đã nghĩ ngay đây là bọn trộm cướp. Nghe chúng nói chuyện với nhau tôi hiểu ra là mình đóan đúng. Chúng đang nói về một vụ trộm lớn chúng vừa làm trot lọt. Chúng nghĩ hẳn tôi sẽ rất thú vị được nhập bọn, liền ngỏ Ý ấy ra, khiến tôi vô cùng bối rối. Các vị có thể hiểu làm sao tôi có thể bạn bè với lọai người như vậy. Nhưng tôi sợ nếu không chịu nhận lời, sẽ làm chúng nổi giận. Tôi bối rối do vậy. Tôi đang lung túng chưa biết nên đối đáp thế nào, thì bỗng nhiên một việc xảy ra giúp tôi thóat khỏi khó khăn. Đích thân viên phó của quan chánh án thành phố, theo sau có chừng hai, ba chục người mang vũ khí xộc vào ngôi mộ, túm lấy bọn trộm cướp và cả tôi nữa, mang tống tất cả vào trại giam khóa trái cửa lại để cả bọn đất suốt đêm hôm ấy.
Ngày hôm sau quan chánh án than hành hỏi cung những người vừa bị bắt. Bọn trộm thú nhận tội ngay, bởi chúng biết có chối cũng vồ ích. Về phần mình, tôi thuật lại cho quan chánh án nghe tôi gặp bọn chúng trong hòan cảnh như thế nào. Bọn trộm cũng xác nhận đúng như vậy, người ta liền cho tôi ra riêng một nơi. Hình như quan chánh án muốn thảm vấn riêng tôi trước khi tha cho về. Quả vậy, ông gọi tôi vào phòng, hỏi tôi làm gì trong nghải trang để đến nỗi bị bắt, và tôi đã làm gì những ngày sống ở Batđa vừa qua. Tóm lại, ông hỏi tôi đủ mọi thứ. Tôi một mực trả lời rất thành khẩn, trừ mỗi một việc không nói rõ xuất thân mình là ai. Tôi thuật lại đầy đủ tất cả những việc tôi đã làm thời gian qua, kể cả chuyện ngày hôm trước đến ăn xin bên cửa sổ tầng một nhà ngài Muaphac, tình cờ có nhìn thấy một tiểu thư rất đẹp ngồi trong nhà.
Tôi để Ý thấy, nghe nhắc đến tên Muaphac, đôi mắt quan chánh án long lên. Ông ta ngồi yên một lúc, có vẻ trầm ngâm, sau đấy lấy bộ vui vẻ nói với tôi:
_ Chàng trai à, chỉ còn tùy thuộc ở anh thôi, nếu anh muốn được thành hôn với cô tiểu thư anh thấy ngày hôm qua. Chắc hẳn đấy là con gái của ngài Muaphac, bởi ta nghe nói ông ta có một cô tiểu thư xinh đẹp tuyệt trần. Cho dù lúc này anh đang là con người cùng khổ nhất thế gian, ta vẫn có thể làm cho anh đạt đến đỉnh cao mong ước. Muốn được vậy, anh chỉ có việc để yên cho ta hành động. Ta có cách làm cho anh bỗng chốc trở nên phú quÝ vinh hoa.
Tôi cảm tạ quan án, cũng chẳng buồn tìm rõ Ý đồ ông định thế để làm gì. Theo lệnh ông, tôi cứ theo sau viên chỉ huy tốp cảnh sát vốn phục dịch hầu hạ trong dinh quan chánh án. Ông truyền thả cho tôi ra khỏi nhà tù, và sai dẫn tôi đến luôn nhà tắm công cộng.
Trong khi tôi đang tắm rửa thì vị quan tòa ấy sai hai viên cánh sát khác đến nhà quan nguyên thống đốc Muaphac, bẩm quan chánh án muốn bàn với ông một công việc cực kỳ hệ trọng. Ông Muaphac liền đi theo hai viên cảnh sát đến gặp quan án. Viên chánh án vừa trông thấy ông Muaphac, đã vội vàng bước ra đón, lễ phép cúi chào và ôm hôn nhiều lần rất nồng nhiệt. Ông Muaphac khá ngạc nhiên về sự đón tiếp ấy. Ông tự hỏi: “Quái, tại sao viên chánh án này, kẻ thù không đội trời chung với ta bây giờ, lại đối xử với ta trọng thị như vậy? Chắc lạo có mưu đồ gì đằng sau đây.” Viên chánh án nói:
_ Kính thưa ngài Muaphac, trời không muốn chúng ta kình địch với nhau lâu hơn nữa. Hôm nay tôi dân ngày một cơ hội để dập tắt mối thù hằn đã chia rẽ nhiều năm hai gia đình chúng ta. Tối qua, hòang tử con vua xứ Basra vừa đến thành phố Batđa. Hiện hòang tử đang nghĩ trong nhà tôi. Chàng rời khỏi kinh đô Basra mà không xin phép vua cha. Bởi chàng nghe đồn đại về sắc đẹp tiễu thư con gái ngài. Ai cũng nói cô là người nhan sắc khác thường, hòang tử đâm long yêu mến, và chàng quyết định đến đây mong tìm cách cưới cô làm vợ. Hòang tử định thong qua sự mai mối của tôi, sao cho cuộc hôn nhân ấy có thể trở thành thực tế ngay tối hôm nay. Yêu cầu của hòang tử làm tôi rất vui lòng, bởi tôi nghĩ đây là một cơ hội tốt đẹp cho phép tôi xóa sự bất hòa xưa nay với ngài.
Thống đốc Muaphac đáp:
_ Tôi rất ngạc nhiên sao hòang tử xứ Basra nghĩ tới chuyện cho tôi vinh dự được gả tiện nữa Zemrut cho chàng, và chính ngài chánh án lại là người báo cho tôi hay tin ấy, ngài là người xưa nay lúc nào tìm cách gây chuyện có hại cho tôi.
_ Thôi chúng ta chớ nên nói về quá khứ nữa, ngài Muaphac ạ - viên chánh án ngắt lời.- Xin ngài làm ơn, chúng ta hãy cùng quên đi tất cả những điều chúng ta đã làm phiền long nhau. Vì cuộc hôn nhân cao quÝ sắp diễn ra giữa tiểu thư của ngài với hòang tử xứ Basra, chúng ta hãy sống những ngày sắp tới trong sự hòan tòan thong cảm với nhau.
Nguyên thống đốc Muaphac là một người bản tính rất tốt, cũng như viên chánh án là một người cực kỳ xấu xa. Ông bị mắc lừa ngay những biểu hiện bạn bè than ái của kẻ thù không đội trời chung. Ông quên đi ngay mối hận và tin tưởng mọi lời đường mật viên chánh án tuôn ra. Hai người lại ôm hôn nhau và cùng nhau thề thốt sẽ kiến tạo một tình bạn không có gì phá vỡ nổi.
Vừa lúc này tôi được viên trưởng cảnh sát dẫn vào phòng. Anh này đã chờ tôi tắm rửa xong, để đưa cho một chiếc áo chòang rất đẹp bảo mặc vào, cùng một chiếc khăn đội đầu bằng lụa Án Độ đắt tiền, có cái dải vàng rũ xuống bên tai. Thọat nhìn thấy tôi bước vào phòng, viên chánh án nói:
_ Thưa hòang tử cao quÝ, xin hoan nghên ngài có nhã Ý đến thăm thành phố Batđa, đặc biệt ngài đã hạ cố lưu lại ở nhà tôi. Tôi không có cách sao bày tỏ hết long cảm kích và sự biết ơn của mình trước vinh dự lớn lao. Xin được giới thiệu đây là ngài nguyện thống đốc Muaphac. Tôi đã có dịp thưa với ngài về mục đích chuyện tới đây của hòang tử. Ngài thống đốc đã chấp thuận cho tiểu thư con gái ngài – một cô gái đẹp tựa tiên nữ- thành thân cùng hòang tử, làm vợ chính thức của ngài.
Ông Muaphac liền cúi chào rất thấp và nói với tôi:
_ Thưa hòang tử con trai nhà vua vĩ đại! tôi rất bối rối trước vinh dự hòang tử định ban cho con gái tôi. Tôi nghĩ cháu hẳn đã thấy mình đã quá hạnh phúc lắm rồi nếu chỉ được làm một nô tỳ cho một bà hòang nào trong tư cung của ngài.
Nghe hai người nói qua nói lại như vậy, tôi ngạc nhêin không sao tả xiết, không bếit mình nên nói năng thế nào. Tôi đành lặng im cúi chào ông Muaphac. Viên chánh án nhìn thấy sự bối rối của tôi, e tôi sẽ thốt ra một lời đối đáp nào có thể làm đảo lộn mưu đồ của ông ta chăng, liền vội vã nói luôn:
_ Bản hôn ước cần được kÝ kết ngay bây giờ trước sự chứng giám của các vị nhân chứng đầy đủ tư cách.
Nói xong ông truyền cho viên trưởng cảnh sát đi mời các người làm chứng. Trong thời gian chờ đợi, đích thân ông làm bản giá thú.
Ngày thứ năm mươi mốt.
Khi viên trưởng cảnh sát mời các người làm chứng tề tựu đông đủ, bản hôn ước thảo xong được đọc lên trước mặt mọi người và tôi kÝ tên vào. Thống đốc Muaphac kÝ tiếp, rồi sau đó người cuối cùng đặt bút kÝ là quan chánh án. Nghi thức vậy là xong. Chán hán mời các ng7ời làm chứng ra về, rồi nói với ông Muaphac:
_ Ngài biết rồi đấy, việc hôn nhân của các vị cao sang không diễn ra như những người bình thường, cần phải bí mật và nhanh chóng. Xin ngài hạy rước vị hòang tử đây về dinh ngài, bây giờ hòang tử đã là con rể của ngài. Xin ngài hãy nhanh chóng truyền lệnh tổ chức lễ cưới tại tư dinh. Mong ngài để mắt cho để mọi việc diễn ra tốt đẹp.
Tôi theo nguyên thống đốc Muaphac bước ra khỏi nhà viên chánh án. Đến cổng đã thấy có hai con lừa rất đẹp thắng yên cương sang trọng đang chờ. Viên chánh án mời hai chúng tôi cưỡi lên một cách rất trọng vọng. Thống đốc Muaphac dẫn tôi về nhà. Vừa vào tới sân, ông vội xuống lừa trước. Với thái độ rất kính cẩn, ông tiến lên giữ bàn đạp cho tôi bước xuống, làm tôi hết sức băn khoăn. Tiếp đó ông ta cầm tay dẫn tôi lên phòng riêng của con gái. Sauk hi nói tóm tắt cho con gái hay những việc vừa diễn ra ở nhà quan chánh án, ông để tôi ở lại đấy một mình cùng với nàng.
Tiểu thư Zemrut tin cha vừa gả mình làm vợ hòang tử Basra thật. Nàng đón tiếp tôi như đón tiếp một người chồng rồi đây sẽ tấn phong nàng làm hòang hậu cả xứ Basra. Về phần mình, tôi hết sức hài long vì được làm bạn với người mình đang yêu thương tha thiết, suốt ngày hôm ấy tôi trò chuyện mặn nồng với tiểu thư. Tôi cố gắng bằng mọi cách, qua thái độ trang nhả và cử chỉ dịu dàng âu yếm, gây được cảm tình của nàng. Chả mấy chốc tôi nhận ra tuổi trẻ và tình yêu của tôi nhanh chóng gây ấn tượng cho cô gái. Rõ rang, về phần nàng, cũng không phải không có cử chỉ bày tỏ lòng thật sự yêu quÝ tôi.
Để mừng cuộc hôn nhân của con gái, thống đốc Muaphac sai bày một bữa tiệc lớn,, có đông đủ mọi người trong gia đình cùng dự. Cô dâu xuất hiện xinh tươi rực rỡ như một tiên nữ giáng trần; tình yêu chớm nở đối với tôi càng làm cho nàng them lộng lẫy. Sau bữa ăn là cuộc vui nhảy múa và đàn ca. Nhiều nô tỳ khá xinh đẹp vừa múa hát vừa biểu diễn các thứ nhạc cụ. Trong khi mọi người tiếp tục nghe đàn hát thì bà mẹ đưa cô dâu ra ngòai.
Lát sau, thống đốc Muaphac đích thân đến cầm tay dẫn tôi đến một căn nhà khá đẹp. Chúng tôi cùng bước vào một căn phòng bày biện đồ đạc khá sang trọng. Giữa phòng có một chiếc giường lớn nhiều cây nến cắm trên những chân đèn bằng bạc chiếu sáng và tỏa mùi thơm ngát. Tiếu thư Zemrut đã được đích thân bà mẹ và hai cô giúp việc cởi bỏ trang phục cho, đã nằm chờ sẵn trên giường. Thống đốc Muaphac, vợ và hai nữ tỳ lui ra. Để lại tôi trong căn phòng ấy sau khi cảm tạ và cầu trời đất hảy ban hạnh phúc cho chúng tôi. Tôi cởi bỏ áo ngòai, lên giường nằm cạnh con người mà tôi yêu quÝ nhất trần đời.
Hôm sau, rất sớm, đã nghe có tiếng gọi ở cửa phòng. Ra mở cửa, tôi thấy viên trưởng cảnh sát hôm qua mang đến một mớ áo quần rách rưới trong cái gói. Thọat nhìn cái gói, tôi ngỡ viên chánh án sai mang đến biếu vợ tôi và tôi mỗi người một bộ lễ phục. Nhưng tôi đã nhầm. Viên cảnh sát da đen nói với vẻ giễu cợt:
_ Thưa nhà phiêu lãng giang hồ, quan chánh án gửi lời chào ngài. Quan xin ngài hãy làm ơn trả lại bộ áo quần mà qua cho ngài mượn tối hôm qua để sắm vai hòang tử xứ Basra. Tôi mang đến đây chiếc áo dài cũ và cách đồ dung rách nát của ngài. Giờ ngài có thể mặc lại bộ trang phục hàng ngày của mình.
Thọat tiên tôi cũng hơi ngạc nhiên, nhưng sau đó tôi hểiu ra ngay tất cả sự xỏ lá của viên chánh án. Tôi trả viên trưởng cảnh sát chiếc khăn đội đầu cũng như tấm áo dài để mang về cho chủ nó, và mặc lại chiếc áo dài cũ kỹ đã thủng rách nhiều chỗ.
Tiểu thư Zamrut cũng đã nghe được một phần những lời viên trưởng cảnh sát da đen nói. Nhìn thấy tôi mặc rách rưới, nàng kêu lên:
_ Trời đất! Sự thay đổi này là thế nào? Anh kia đến nói với chàng điều gì đấy?
Tôi đáp:
_ Thưa bà hòang của tôi, viên chánh án là một tên đểu cáng nhất trên đời này. Nhưng chính nó lại là nạn nhân của sự đểu cáng của nó muốn lừa gạt người khác. Nó cứ tưởng lừa nàng lấy một kẻ khốn nạn, sinh ra từ lớp người hạ đẳng làm chồng, nhưng thật ra nàng đang làm vợ một hòang tử. Địa vị của tôi chẳng hề thua kém người chồn gmà tối hôm qua người ta giới thiệu để nàng kết hôn. Địa vị của hòang tử Basra thì có hơn gì địa vị của tôi đây, con trai duy nhất của nhà vua đang trị vì xứ Muxen.Tôi là người sẽ kế vị ngai vàng của đức Ben-Ortoc vĩ đại. Tên tôi là Falala.
Nói xong tôi thuật lại đầu đuôi mọi câu chuyện đã xảy ra với tôi, không bỏ bớt một chi tiết nào. Chờ tôi kể xong, tiểu thư nói:
_ Thưa hòang tử của em, cho dù chàng không phải là con trai của một nhà vua vĩ đại đi nữa, thì em vẫn yêu chàng không kém. Em xin quả quyết với chàng, nếu em có tỏ ra vui mừng được biết dòng dõi cao sang của chàng, ấy là để làm vui lòng thân phụ em là chính, người lúc nào cũng quan tâm đến các lễ nghi và sự môn đăng hộ đối. Mong ước lớn nhất của đời em là được một người chồng chi yêu duy nhất mình em thôi, một người chồng chẳng bao giờ để cho em phải ghen tuông những người phụ nữ khác.
Tôi vội nói với nàng tôi sẽ yêu nàng trọn đời. Tiểu thư Zemrut có vẻ hài long về lời quả quyết ấy. Tiểu thư gọi một người giúp việc, dặn riêng với người ấy hãy nhanh chóng đến một hiệu buôn, mua một bộ trang phục đàn ông đã may sẵn và vào lọai sang trọng nhất. Cô nô tỳ nhanh nhảy chạy đi, và lát sau trở lại mang theo một chiếc áo dài và một bộ áo ngắn rất đẹp, cùng một cái khăn đội đầu may bằng lụa Ấn Độ giống hệt như cái đội tối hôm qua, thành thử bây giờ trông tôi ăn mặc có vẻ còn sang trọng hơn hôm trước. Lúc này nàng Zemrut mới nói với tôi:
_ Thưa chàng, chàng không phải lo viên chánh án sẽ có cớ để mừng vui câu chuyện lão bày ra định làm hại chúng ta. Lão muốn làm nhục gia đình em, ngược lại lão đã tạo nên cho gia đình em một vinh dự đời đời. Lúc này hẳn lão tưởng tượng gia đình em đang hết sức buồn phiền. Chính lão sẽ phải buồn phiền hơn nữa nếu rồi đây lão biết đã phục dịch tốt đến vậy các kẻ thù của lão. Nhưng trước khi cho lão biết chàng là ai, tao phải trừng trị mưu đồ xấu xa của lão. Em sẽ lo việc ấy. Em biết trong thàng phố này có một người thợ nhuộm có một cô con gái xấu khủng khiếp. Nhưng giờ đây em chưa muốn nói nhềiu hơn nữa, để cho chàng rồi sẽ tha hồ ngạc nhiên. Lúc này chảng chỉ cần bếit em đang suy tính một kế họach trả thù, nó sẽ làm cho viên chánh án kia đi đến chỗ tuyệt vọng, khiến cho nó trở thành trò hề trước triều đình và cả trong thành phố này.
Ngày thứ năm mươi hai.
Tôi nghĩ là chỉ cần nói cho viên chán án rõ đích thực tôi là ai, cũng đủ làm cho y buồn rầu khốn khổ rồi. Nhưng nàng Zemrut có vẻ cực kỳ mong muốn trả thù. Các vị hiểu tính đàn bà rồi, tôi chẳng việc gì phải trái Ý, tôi cứ để yên nàng muốn làm gì thì làm. Nàng mặc vội một bộ áo quần dân thường nhưng khá sạch sẽ, sau khi lấy một tấm mạng khá dày trùm lên mặt. nàng xin phép tôi được ra phố. Tôi đồng Ý.
Nàng ra khỏi nhà một mình, đi thẳng đến dinh cơ viên chánh án. Đến nơi, nàng tìm một chỗ đứng ở góc phòng, nơi viên chánh án thường tiếp dân chúng hằng ngày. Vừa trông thấy nàng, viên chánh án chú ngay dáng vẻ đường bệ của người phụ nữ, liền sai một viên cảnh sát đến hỏi bà là ai và bà cần gì. Nàng đáp mình là con gái một thợ thủ công trong thành phố, nàng có nguyện vọng được nói chuyện riêng với quan chánh án về một câu chuyện bí mật. Nghe viên cảnh sát trình lại, viên chánh án vốn là người háo sắc, ra hiệu cho Zemrut tiến đến gần và cho vào một căn phòng khác, ngay bên phòng xử án. Nàng nghiêng mình tuân lệnh ngồi xuống ghế, và đưa tay lật tấm mạng che mặt. Viên chánh án đi sau nàng ngồi xuống bên cạnh. Lão hết sức ngạc nhiên trước sắc đẹp của nàng. Lão nói:
_ Này em bé, em có việc gì cần ta giúp đỡ?
_ Bẩm quan chánh án,- nàng đáp- ngài là người nắm quyền sinh sát trong tay, ngài có phép bắt dân chúng tuân thủ luật lệ, ngài mang lại công bằng cho người giàu cũng như kẻ nghèo. Em van ngài, xin lắng nghe và quan tâm đến những lời khiếu nại của em đây. Xin ngài đóai thương hại tình cảnh khốn khổ của em lúc này.
- Em hảy nói ta nghe có việc gì. Ta thề sẽ vì em làm tất cả mọi việc.
Lúc này nàng Zemrut bỏ hẳn tấm mạng ra, để lộ ra trước mắt viên quan tòa mái tóc huyền rất đẹp xõa xuống đôi vai trắng ngần và nói:
_ Thưa ngài xin hãy nhìn xem mái tóc này có xấu xa lắm không. Xin ngài hãy nhìn kỹ khuôn mặc của em, rồi ngài nói thẳng thắn cho em biết ngài nghĩ thế nào.
Viên chánh án háo sắc nghe người con gái nói vậy, nghĩ bụng việc này là một cơ hội tốt cho mình đâym lão vội nói:
_ Nói có trời đất chứng giám, ta thấy em chẳng có một khiếm khuyết nào. Vầng trán em giống như một vầng trăng bạc, đôi long mày em giống hai cánh cung, đôi má em như hai nụ hoa hồng, đôi mắt em như hai viên ngọc tỏa sánh lung linh, và miệng của em thì khác nào một cái hộp bằng hồng ngọc che hàm răng của em đều và đẹp như chuỗi ngọc trai.
Tiểu thư con gái thống đốc Muaphac không dừng lại ở đây. Nàng đứng lên ưỡn ẹo bước mấy bước trong phòng, vừa đi vừa làm dáng:
_ Xin ngài hãy nhìn tấm thân của em đây, hãy nhìn cho thật kỹ vào, ngài xem người em có chỗ nào bất bình thường. Người em có đượn nõn nà kh6ong, cử chỉ em có ngập ngừng bối rối, dáng đi em có gì khó nhìn không.
Viên chánh án bảo:
_ Ta hết sức say mê khi ngắm nghía em, ta thật chưa bao giờ thấy có người xinh đẹp như em.
Tiểu thư lại vạch hai cánh tay ra và hỏi:
_Vậy ngài thấy đôi tay của em thế nào, có trắng không, còn tròn không?
Đến đây viên chánh án cảm thấy người bừng bừng, liền sốt ruột thốt lên:
_ Thôi đi cô nàng độc ác kia, cô làm ta đến chết mất. Em cần gì ở ta, hãy nói nhanh lên, ta không thể nhìn em lâu hơn nữa mà không cảm thấy mình ngây ngất bang hoàng, không sao chịu nổi.
-Vậy xin ngài biết cho, thưa quan chánh án,-tiểu thư Zemrut lại nói- mặc dù trời phú cho em hình dáng nhan sắc thế này, vậy mà em vẫn phải sống tối tăm đơn chiếc trong một căn nhà cấm. Không chỉ cấm tất cả đàn ông được đặt chân vào mà còn cấm cả phụ nữ được bén mảng, ít ra chị em vào họ còn có thế nói với em đôi lời an ủi. Không phải chẳng có một đám nào muốn đến hỏi em về làm vợ. Dễ thường em đã kiếm được một tấm chồng từ đời nảo đời nao rồi, nếu cha em không độc ác tới mức khước từ tất cả mọi người muốn đến cầu hôn. Với những người này cha em bảo em khô như một cây củi, với người khác cha em bảo em béo phì, với người nọ ra em vừa thọt chân vừa cụt tay, với người kia em là một con bé không có trí khôn, em bị ung thư sau lưng, cái ngực thì lép xẹp; em là người kỵ nước cho nên người ghẻ lở tòan thân… Tóm lại cha em mô tả em như một con quái vậy không đáng được làm bạn với đàn ông. Lâu ngày trước mắt mọi người em trở thành một điều sỉ nhục của nhân lọai. Chẳng còn ma nào muốn đến tìm gặp em nữa, thế là em đành phải sống cô đơn cho hết đời.
Nói đến đây nàng giả vờ khóc lóc và làm trò khéo léo đến mức viên chánh án cũng tin là thật:
_ Ôi sao lại có người cha dã man đến vậy! Sao cha em lại muốn đối xử một cách khắt khe như vậy với một cô con gái dễ thương dường này. Làm sao ngăn không cho một cây đẹp thế ấy được đâm hoa kết quả. Đó là điều ta không thể nào chấp nhận. Vậy Ý đồ thật của cha em là gì, hãy nói đi, cô tiên của ta, tại sao cha em không muốn cho em lấy chồng?
_ Nào em có biết, kính thưa ngài – nàng Zemrut vừa đáp vừa giả vờ khóc già hơn.- Em không rõ thật lòng cha em muốn gì, nhưng em thú thật với ngài là em mất hết kiên nhẫn rồi, em không thể nào sống được nữa trong tình cảnh hiện nay. Vì vậy em tìm được cách trốn khỏi nhà cha em. Em đến đây để sà vào đôi tay hào hiệp của ngài, mong ngài cứu giúp em. Thưa quan chánh án mong ngài rộng long thương, dùng quyền uy của ngài để lại công bằng cho em. Nếu không em chẳng thiết sống nữa, em sẽ cầm con dao găm thủ sẵn trong người đây và tự tay đâm vào trái tim, để chấm dứt mọi nỗi khổ đau.
Ngày thứ năm mươi ba.
Câu nói cuối cùng của nàng Zemrut làm điên đảo đầu óc viên chánh án. Lão nói:
_ Không, không thể đâu. Em không thể nào chết, không ai để cả tuổi thanh xuân của em chỉ có khóc lóc và thở than. Ta không những muốn đưa em ra khỏi nơi tối tăm cô độc, ta còn muốn ngay từ bây giờ làm cho em trở thành phu nhân quan chánh án tòan thành phố Batđa. Em là một tiên nữ giáng trần, ta sẵn sàng cưới em làm vợ, nếu em vui lòng chấp nhận.
Tiểu thư vội nắm lấy cơ hội:
_ Thưa ngài, cho dù ngài không phải là một nhân vật quan trọng nhất trong thành phố này thì em vẫn sẵn sàng giao phó thân em cho ngài, vì em thấy ngài rất khả ái. Nhưng em sợ rằng ngài chẳng thể làm cho cha em nhận lời, cho dù ngài mang lại cho gia đình em một vinh dự vô cùng to lớn nếu có được cuộc hôn phối này.
- Về chuyện này em chớ có lo âu,-viên chánh án đáp- ta lo hết mọi sự. Em chỉ cần nói cho ta biết nhà cha em ở phố nào, tên ông là gì và nghề nghiệp của ông.
- Cha em tên là Usta Oma,- tiểu thư đáp- cha em làm nghề thợ nhuộm, nhà cha em ở bờ phía đông sông Đêghêla (sông Tigris). Trước nhà em có một cây chà là rất nhiều quả.
- Thế là đủ,- viên chánh án nói,- giờ đây em có thể trở về nhà. Ta hứa chẳng bao lâu nữa em sẽ nghe nói đến ta.
Vậy là tiểu thư sau khi liếc mắt đưa tình mấy lần nữa, cầm tấm mạng che mặt và ra khỏi phòng viên chánh án. Nàng trở về gặp tôi, thuật lại cho tôi nghe màn kịch vừa diễn ra giữa nàng và viên chánh án. Nàng tỏ ra thích thú tới mức không kiềm chế được nữa. Nàng cười rũ rượi, nói với tôi:
- Chúng ta sẽ được báo thù. Kẻ thù của chúng ta muốn biến chúng ta thành trò cười của dân chúng rồi chính lão ta chính là trò cười của bàn dân thiên hạ.
Quả như nàng tiên đoán, tiểu thư Zemrut vừa đi khỏi, lão chánh án đã vội vàng phái một viên cảnh sát đến tận nhà ông Usta Oma, bảo:
- Mời ông đến gặp ngay quan chánh án, quan có việc muốn nói chuyện với ông. Quan ra lệnh cho tôi đến đây dẫn ông đến ra mắt quan.
Người thợ nhuộm tái mặt, ông nghĩ chắc có người nào đó tố cáo ông việc gì với quan chánh án đây, cho nên người ta mới đòi ông đến hầu toà. Ông đi theo viên cảnh sát, lòng đầy lo âu.
Vừa tới nơi, viên quan đã mời ông vào đúng căn phòng lão vừa trò chuyện với nàng Zemrut lúc nãy, mời ông ngồi lên cùng chiếc ghế ấy. Người thợ nhuộm quá bối rối trước vinh dự này, mặt biến sắc nhiều lần. Viên chánh án từ tốn bảo ông:
-Thưa thầy Oma, tôi rất hài lòng được gặp thầy, đã lâu lắm tôi nghe mọi người nói đến thầy một cách trọng thị. Người ta bảo thầy là một người ngoan đạo. Rằng hàng ngày thầy cầu kinh đều đặn năm lần, rằng không có ngày thứ sáu nào thâ không đến chịu lễ ở đại thánh đường. Ngoài ra thầy không bao giờ ăn thịt lợn, thầy không uống rượu vang, cũng không uống cả rươụ chà là. Người ta còn bảo, trong khi thầy làm việc, thầy sai một chú bé đọc kinh Coran cho thầy nghe.
- Quả đúng như vậy, trình ngài,- ông thợ nhuộm đáp. Tôi còn thuộc lòng hơn bốn nghìn vần thơ của đấng tiên tri Môhamêt, và tôi đang chuẩn bị để sắp tới đây hành hương về thánh địa Mêcca.
- Tôi xin quả quyết với thầy, tất cả những chuyện ấy khiến tôi vui lòng,-lão chánh án lại nịnh.- Bởi tôi rất quý trọng các tín đồ Hồi giáo ngoan đạo. Người ta còn bảo với tôi rằng, thầy có sau phòng the một cô gái đến tuổi lấy chồng, có đúng vậy không?
Người thợ nhuộm Usta Oma vội đáp:
- Kính thưa ngài chánh án cao minh, là người từng giúp đỡ những kẻ khốn cùng có được sự công bằng, người ta nói đúng đấy. Tôi có một đứa con gái đã quá tuổi lấy chồng, bởi cháu cũng đã ngoài ba mươi rồi. Nhưng khốn nạn con bé ấy không đáng để được ra mắt bất kỳ người đàn ông nào. Nó xấu lắm, xấu đến khủng khiếp, vừa thọt chân vừa ghẻ lở lại ngu ngốc, tóm lại đấy là một con quỷ cái mà tôi không biết giấu vào đâu cho khuất mắt.
Viên chánh án mỉm cười:
- Tốt, tôi chỉ chờ có thế, thưa thầy Oma. Tôi hiểu thầy khiêm tốn, không muốn ca ngợi con gái mình. Nhưng ông bạn của tôi ơi, ông hãy biết cho là cô con gái ghẻ lở, cô con gái ngu ngốc, cô con gái thọt chân, cô con gái xấu khủng khiếp, con quỷ cái với tất cả khiếm khuyết của nó, đang được một người đàn ông thương yêu và rất muốn lấy làm vợ. Người đàn ông ấy chính là tôi đây.
Nghe vậy người thợ nhuộm nhìn thẳng vào viên quan toà và nói:
- Nếu quan lớn chánh án muốn đùa, đó là quyền của ngài, vì ngài là ông chủ. Ngài có quyền muốn giễu cợt con gái tôi bao nhiêu, tôi đâu dám có ý kiến.
- Không, không phải thế đâu-quan chánh án đáp.- Tôi không đùa một chút nào. Tôi yêu con gái thầy thật sự và ngỏ lời với thầy hãy gả cô ấy cho tôi.
Viên thợ thủ công phá ra cười:
- Xin Đấng tiên tri phù hộ ngài chớ nên làm chuyện ấy. Tôi xin báo trước để ngài rõ, con gái tôi cháu cụt tay, thọt chân, gù lưng, kỵ nước…
- Đúng thế, -viên quan toà ngắt lời.- Tôi biết rõ lắm, tôi yêu những tạng con gái như vậy, đấy là sở thích của tôi.
- Một lần nữa xin thưa với ngài, cháu không phù hợp với ngài đâu,-người thợ nhuộm lại đáp.- Tên cháu là Quỷ dạ xoa, và tôi xin quả quyết là nó xứng với cái tên ấy lắm ạ.
- Thôi! Thế là đủ- viên quan chánh án nghiêm giọng nói.- Ta mệt mỏi vì mọi lý lẽ của thầy lắm rồi. Thầy Oma à, ta muốn thầy gả con Quỷ dạ xoa ấy cho ta làm vợ. Người cô ấy ra thế nào cũng được, thầy chớ có cãi ta nhiều hơn nữa.
Thấy viên chánh án nhất quyết đòi lấy con gái mình, người thợ nhuộm nghĩ chắc có một người nào đấy muốn đùa dai, đã mô tả cho lão chánh án con gái mình dưới dạng khác đẹp như tiên, khiến cho lão đâm si mê. Ông liền tự bảo, đã thế thì ta phải đòi cho ta một khoản tiền cược (đây là khoản tiền mặt chàng rể phải đưa cho bố vợ khi cưới, hoặc trả cho người vợ nếu muốn ly hôn) thật lớn. Đòi khoản tiền to quá sẽ khiến cho lão bủn xỉn đâm chán, thôi không đòi ta gả con quỷ ấy cho nữa:
- Trình ngài, tôi sẵn sàng tuân theo lệnh ngài. Nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ gả cháu Quỷ dạ xoa cho bất kỳ ai, trừ phi người ấy chịu đưa cho tôi trước một khoản tiền cược một nghìn đồng xơcanh vàng.
- Khoản tiền ông đòi hơi lớn quá đấy, viên chánh án nói.- Tuy nhiên ta sẽ giao ngay cho ông đầy đủ.
Nói xong, viên quan toà sai mang đến một túi lớn đầy tiền xơcanh vàng, sai người đếm lấy một nghìn, mang cân xem có nặng đúng không, và giao tận tay người thợ nhuộm. Viên chánh án truyền lệnh lập hôn ước ngay. Nhưng đến lúc cần phải ký tên vào, thì người thợ nhuộm nói mình chỉ có thể ký trước mắt đủ một trăm người làm chứng theo đúng luật. Viên chánh án nói:
- Ông quả là người cả lo. Nhưng không sao, ta sẽ thoả mãn ý ông bởi ta không muốn để cho cô con gái của ông thoát khỏi tay ta.
Ngay lập tức chánh án sai đi tìm người làm chứng, nào là các thầy thuốc, các vị tu hành, các người giúp việc trong thánh đường và cả những người ở toà án. Lát sau người làm chứng đến đông hơn cả số mà người thợ nhuộm đòi hỏi.
Sponsored content
Re: [Truyện cổ Ba Tư] Nghìn lẻ một ngày - François Pétis De La Croix
Chuyển đến trang : 1, 2, 3, 4
Quyền viết bài:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|